quynhmy84
27-02-04, 08:26 AM
Kinh thành Huế - Hoàng thành
Ban đầu có tên là thành Phú Xuân, về sau được đổi thành Kinh thành Huế. Đây từng là Kinh đô của nước Việt Nam phong kiến trong suốt gần 400 năm (1558 - 1945).
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Cuathenhon.GIF
Cửa Thể Nhân - Ảnh: Đào Hoa Nữ
Kinh thành Huế do vua Gia Long xây dựng vào năm 1805, nằm ngay bên dòng Sông Hương, đến năm 1832 được vua Minh Mạng tu sửa lại. Bức tường thành bao quanh Kinh thành dài 2,5km; xung quanh Kinh thành về phía ngoài có hào rộng. Du khách vào Kinh thành qua bất kỳ 10 cửa thành kiên cố, mỗi cửa đều có cầu bắc ngang qua hào.
Bên trong Kinh thành là Hoàng thành - nơi vua tổ chức những buổi họp trọng đại. Có bốn cửa để vào Hoàng thành, cửa lớn nhất và nổi tiếng nhất là Ngọ Môn dùng làm cửa chính đi vào Hoàng thành. Tử Cấm thành nằm trong Hoàng thành chỉ dành riêng cho vua và gia đình vua.
Mặc dù bị tàn phá nặng nề trong nhiều cuộc chiến tranh giành độc lập, nhưng Kinh thành Huế vẫn giữ được những hiện vật giá trị, đáng ghi nhớ và gây ấn tượng về thời kỳ tráng lệ, huy hoàng của một triều đại phong kiến như: Cửu vị Thần công (những vị thần bảo vệ cung điện nhưng chỉ mang tính chất tượng trưng); điện Thái Hòa (nơi tiếp đón long trọng của Kinh thành); khu nhà ở của quan triều đình; Cửu Đỉnh thờ các vị hoàng đế nhà Nguyễn.
Chùa Thiên Mụ
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/ToancanhLinhmu.gif
Toàn cảnh Chùa Thiên Mụ
Do chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Ngôi chùa nằm bên bờ trái sông Hương thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm thành phố Huế 5km.
Đến năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu vào năm 171 chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc quả đại hồng chung (cao 2,5m, nặng 3.285kg). Đến năm 1715, Chúa lại cho xây dựng một tấm bia cao 2,58m đặt trên lưng một con rùa làm bằng cẩm thạch.
Tháp Phước Duyên hình bát giác có 7 tầng, cao 21m. Điện Đại Hùng là ngôi điện chính trong chùa, có kiến trúc nguy nga đồ sộ. Ngoài bức tượng đồng lớn, trong điện còn có vô số bức tượng; một khánh đồng được đúc năm 1677 và một bức hoành phi bằng gỗ được sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714.
Mặc dù, chùa đã bị hư hỏng nặng vào năm 1943 và được trùng tu trong suốt 30 năm qua, nhưng hiện nay vẫn giữ được nét huy hoàng, tráng lệ như xưa.
Lăng Tự Đức
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Langtuduc.GIF
Hồ Lưu Khiêm - Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức được xây dựng vào giữa năm 1864 và 1867 trong một thung lũng hẹp thuộc làng Thượng Ba, xã Thủy Xuân, cách thành phố Huế 8 km. Toàn thể kiến trúc gồm bức tường thành rộng lớn, bên trong có gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau. Qua cửa Vũ Khiêm, đến khu vực hồ Lưu Khiêm, trên hồ có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua thường đến ngắm hoa, làm thơ và đọc sách.
Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, rồi đến điện Hòa Khiêm, đây vốn là nơi làm việc của vua nhưng nay dùng để thờ phụng vua và hoàng hậu. Sau điện Hòa Khiêm đến điện Lương Khiêm, đây là nơi an nghỉ của vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm đường, nơi cất đồ ngự dụng.
Ngay sau hai hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi Đình (nhà bia), tấm bia làm bằng đá thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung ký do nhà vua soạn để nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trí là Bửu Thành xây bằng gạch, nơi chôn cất thi hài của vua.
Lăng Minh Mạng
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Mingmang.gif
Hoàn Trạch Môn và Minh Lâu - Ảnh: Hữu Nền
Nằm trên ngọn núi Cẩm Kê cách thành phố Huế khoảng 14km, gần ngã ba Bằng Lãng nơi hợp nguồn tạo thành sông Hương. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 1840 và được vị vua nối ngôi Minh Mạng tiếp tục xây dựng cho đến khi hoàn tất vào năm 1843.
Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc qui mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, bao gồm cả cung điện, đền miếu và lâu đài. Đại Hồng môn (cổng chính vào lăng) chỉ mở một lần để đưa quan tài nhà vua vào lăng sau đó được đóng chặt. Du khách vào tham quan lăng đi qua một trong hai cổng: Tả Hồng môn (cửa phía bên trái) và Hữu Hồng môn (cửa phía bên phải).
Lăng Minh Mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuyệt đẹp gồm cả cầu thang “rồng” bất hủ, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm vua nhà Nguyễn.
Lăng Gia Long
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Gialong.GIF
Điện Minh Thành lăng Gia Long
Đến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi bằng thuyền theo dọc sông Hương với lộ trình dài khoảng 18km; hoặc đi theo đường bộ chừng 16km qua đò ngang Kim Ngọc, sau đó đi bộ thêm vài cây số nữa để đến lăng.
Được khởi công xây dựng năm 1814 và đến năm 1820, không chỉ riêng phần lăng mộ vua Gia Long mà cả một quần thể lăng trong hoàng quyến đã được hoàn tất.
Toàn bộ khu lăng là một quần sơn 42 ngọn đồi lớn nhỏ và được chia làm 3 khu vực. Khu vực chính giữa là lăng, mộ vua và Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Bên phải là điện Minh Thành, nơi thờ hoàng đế và hoàng hậu thứ nhất. Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn là tấm bia, khắc dòng chữ ca ngợi công đức của vua Minh Mạng.
Lăng Khải Định
Ảnh: Đào Hoa Nữ
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Khaidinh.GIF
Lăng Khải Định
Vua Khải Định qua đời năm 1925, thọ 40 tuổi và thi hài được chôn cách thành phố Huế 10 km. Lăng Khải Định xây dựng trong vòng 11 năm, đến năm 1931 mới hoàn thành. So với lăng của các vị vua khác, lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn nhiều và hội nhập được các dòng kiến trúc phương Đông và châu Âu. Đáng chú ý nhất là thành bậc đắp rồng bằng đá (to lớn nhất nước) dẫn vào phòng chính và điện Khải Thành, trên các bức tường điện được trang trí bằng những bức khảm kính nhiều màu sắc.
Ban đầu có tên là thành Phú Xuân, về sau được đổi thành Kinh thành Huế. Đây từng là Kinh đô của nước Việt Nam phong kiến trong suốt gần 400 năm (1558 - 1945).
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Cuathenhon.GIF
Cửa Thể Nhân - Ảnh: Đào Hoa Nữ
Kinh thành Huế do vua Gia Long xây dựng vào năm 1805, nằm ngay bên dòng Sông Hương, đến năm 1832 được vua Minh Mạng tu sửa lại. Bức tường thành bao quanh Kinh thành dài 2,5km; xung quanh Kinh thành về phía ngoài có hào rộng. Du khách vào Kinh thành qua bất kỳ 10 cửa thành kiên cố, mỗi cửa đều có cầu bắc ngang qua hào.
Bên trong Kinh thành là Hoàng thành - nơi vua tổ chức những buổi họp trọng đại. Có bốn cửa để vào Hoàng thành, cửa lớn nhất và nổi tiếng nhất là Ngọ Môn dùng làm cửa chính đi vào Hoàng thành. Tử Cấm thành nằm trong Hoàng thành chỉ dành riêng cho vua và gia đình vua.
Mặc dù bị tàn phá nặng nề trong nhiều cuộc chiến tranh giành độc lập, nhưng Kinh thành Huế vẫn giữ được những hiện vật giá trị, đáng ghi nhớ và gây ấn tượng về thời kỳ tráng lệ, huy hoàng của một triều đại phong kiến như: Cửu vị Thần công (những vị thần bảo vệ cung điện nhưng chỉ mang tính chất tượng trưng); điện Thái Hòa (nơi tiếp đón long trọng của Kinh thành); khu nhà ở của quan triều đình; Cửu Đỉnh thờ các vị hoàng đế nhà Nguyễn.
Chùa Thiên Mụ
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/ToancanhLinhmu.gif
Toàn cảnh Chùa Thiên Mụ
Do chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Ngôi chùa nằm bên bờ trái sông Hương thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm thành phố Huế 5km.
Đến năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu vào năm 171 chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc quả đại hồng chung (cao 2,5m, nặng 3.285kg). Đến năm 1715, Chúa lại cho xây dựng một tấm bia cao 2,58m đặt trên lưng một con rùa làm bằng cẩm thạch.
Tháp Phước Duyên hình bát giác có 7 tầng, cao 21m. Điện Đại Hùng là ngôi điện chính trong chùa, có kiến trúc nguy nga đồ sộ. Ngoài bức tượng đồng lớn, trong điện còn có vô số bức tượng; một khánh đồng được đúc năm 1677 và một bức hoành phi bằng gỗ được sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714.
Mặc dù, chùa đã bị hư hỏng nặng vào năm 1943 và được trùng tu trong suốt 30 năm qua, nhưng hiện nay vẫn giữ được nét huy hoàng, tráng lệ như xưa.
Lăng Tự Đức
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Langtuduc.GIF
Hồ Lưu Khiêm - Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức được xây dựng vào giữa năm 1864 và 1867 trong một thung lũng hẹp thuộc làng Thượng Ba, xã Thủy Xuân, cách thành phố Huế 8 km. Toàn thể kiến trúc gồm bức tường thành rộng lớn, bên trong có gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau. Qua cửa Vũ Khiêm, đến khu vực hồ Lưu Khiêm, trên hồ có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua thường đến ngắm hoa, làm thơ và đọc sách.
Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, rồi đến điện Hòa Khiêm, đây vốn là nơi làm việc của vua nhưng nay dùng để thờ phụng vua và hoàng hậu. Sau điện Hòa Khiêm đến điện Lương Khiêm, đây là nơi an nghỉ của vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm đường, nơi cất đồ ngự dụng.
Ngay sau hai hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi Đình (nhà bia), tấm bia làm bằng đá thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung ký do nhà vua soạn để nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trí là Bửu Thành xây bằng gạch, nơi chôn cất thi hài của vua.
Lăng Minh Mạng
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Mingmang.gif
Hoàn Trạch Môn và Minh Lâu - Ảnh: Hữu Nền
Nằm trên ngọn núi Cẩm Kê cách thành phố Huế khoảng 14km, gần ngã ba Bằng Lãng nơi hợp nguồn tạo thành sông Hương. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 1840 và được vị vua nối ngôi Minh Mạng tiếp tục xây dựng cho đến khi hoàn tất vào năm 1843.
Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc qui mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, bao gồm cả cung điện, đền miếu và lâu đài. Đại Hồng môn (cổng chính vào lăng) chỉ mở một lần để đưa quan tài nhà vua vào lăng sau đó được đóng chặt. Du khách vào tham quan lăng đi qua một trong hai cổng: Tả Hồng môn (cửa phía bên trái) và Hữu Hồng môn (cửa phía bên phải).
Lăng Minh Mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuyệt đẹp gồm cả cầu thang “rồng” bất hủ, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm vua nhà Nguyễn.
Lăng Gia Long
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Gialong.GIF
Điện Minh Thành lăng Gia Long
Đến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi bằng thuyền theo dọc sông Hương với lộ trình dài khoảng 18km; hoặc đi theo đường bộ chừng 16km qua đò ngang Kim Ngọc, sau đó đi bộ thêm vài cây số nữa để đến lăng.
Được khởi công xây dựng năm 1814 và đến năm 1820, không chỉ riêng phần lăng mộ vua Gia Long mà cả một quần thể lăng trong hoàng quyến đã được hoàn tất.
Toàn bộ khu lăng là một quần sơn 42 ngọn đồi lớn nhỏ và được chia làm 3 khu vực. Khu vực chính giữa là lăng, mộ vua và Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Bên phải là điện Minh Thành, nơi thờ hoàng đế và hoàng hậu thứ nhất. Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn là tấm bia, khắc dòng chữ ca ngợi công đức của vua Minh Mạng.
Lăng Khải Định
Ảnh: Đào Hoa Nữ
http://www.thuathienhue.gov.vn/Dulichdichvu/Images/Khaidinh.GIF
Lăng Khải Định
Vua Khải Định qua đời năm 1925, thọ 40 tuổi và thi hài được chôn cách thành phố Huế 10 km. Lăng Khải Định xây dựng trong vòng 11 năm, đến năm 1931 mới hoàn thành. So với lăng của các vị vua khác, lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn nhiều và hội nhập được các dòng kiến trúc phương Đông và châu Âu. Đáng chú ý nhất là thành bậc đắp rồng bằng đá (to lớn nhất nước) dẫn vào phòng chính và điện Khải Thành, trên các bức tường điện được trang trí bằng những bức khảm kính nhiều màu sắc.