heorung
25-09-04, 12:26 PM
"Tôi không có thói quen chơi bời, thỉnh thoảng nhậu nhẹt với bạn bè ở công trường xong là ngủ ngay. Chỉ đi “tăng hai” đúng 1 lần và lần ấy thì say bí tỷ" - H, anh chàng thợ xây cay đắng bộc bạch khi đang ở vào giai đoạn cuối của AIDS
Cuộc đời di động và cái chết bất ngờ
Ngày rời xã Tam Dân, Tam Kỳ theo bạn bè vào TP.HCM làm phụ hồ, suy nghĩ duy nhất của anh thanh niên 17 tuổi Nguyễn Trung H là để tránh xa sự mời gọi không thể thoát được của những bãi đào vàng “lậu”. Thanh niên trong xã không đi xa làm ăn thì cũng kéo nhau lên bãi đào vàng cả. Mà người vào Nam thì Tết đến còn rộn ràng kéo nhau về. Những người lên bãi vàng thì biệt tăm, đến lúc về hầu như ai cũng chỉ là một bộ xương về nhà chờ chết. Vì vậy H chọn đường vào Nam.
Làm thợ xây dựng được 3 năm, H biết tin mình nhiễm HIV trong một lần bị tai nạn lao động, phải truyền máu. Lần ấy, nghe bác sĩ thông báo, H cười, không tin, vì chẳng có lý do gì khiến anh bị nhiễm cả. “Tôi không có thói quen chơi bời, thỉnh thoảng nhậu nhẹt với bạn bè ở công trường xong là ngủ ngay. Chỉ đi “tăng hai” đúng 1 lần và lần ấy thì say bí tỷ!!!” H thậm chí còn không nhớ mình đã đi cái “vụ tăng hai” ấy ở công trường nào, thuộc tỉnh nào trên đất nước này.
Bây giờ thì H đang vào giai đoạn cuối của AIDS. Đơn độc, không bạn bè, người thân. Những người tiếp xúc với anh bây giờ là những tình nguyện viên, cũng nhiễm HIV. “Lúc phát hiện ra tôi nhiễm HIV, chủ thầu gọi đến trả 2 tháng lương, cho thêm 500.000đ và nói tôi rời công trường… Quá sốc, suốt một tuần, tôi tìm đến gái làng chơi và không dùng bất cứ một biện pháp phòng tránh nào…”
Không quá cô đơn vào giai đoạn cuối của cuộc đời như H song ấn tượng về AIDS đối với Trần Hồng L tuy mờ nhạt nhưng lại là vết cứa sâu vào tâm hồn cô. “Em nhiễm qua bạn trai. Làm công nhân xí nghiệp giày, sáng đi, chiều tối về. Em không ăn chơi, cũng chẳng bao giờ đi đến tiệm làm tóc để gọi là có nguy cơ như bác sĩ nói… Khi biết em bị nhiễm thì bạn trai của em cũng bỏ đi biệt, hỏi quanh mới biết anh ấy đã nhiều lần đi chơi bời ngoài đường…”.
Ngay hôm biết mình nhiễm, L nói cho một cô bạn biết. Đến chiều tối đi làm về, 5 người ở cùng phòng ra “tối hậu thư”: Hoặc L ra đi và họ sẽ im lặng, hoặc họ đi và tất cả mọi người trong xí nghiệp sẽ biết chuyện này. “Em không hiểu cặn kẽ gì về căn bệnh này và cũng chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ mắc phải. Thái độ của mọi người làm em hụt hẫng và cả sợ hãi. Có lẽ, cũng nên thông cảm cho họ, bởi bình thường chị em vẫn đùa nhau “chỉ cần ngồi vào chiếc ghế mà người nhiễm HIV ngồi, mình cũng bị lây. Tụi em không hiểu gì về AIDS cả”.
Bây giờ, H sống trong một trung tâm bảo trợ, thỉnh thoảng sửa sang lại những chỗ hỏng dột nho nhỏ ở trung tâm. L thì nương nhờ một ngôi chùa, phụ giúp những việc làm vườn. Cả hai không hề nghĩ đến chuyện về quê.
Nguy cơ của tính di động
Dân số di động từ lâu đã được coi là mắt xích quan trọng gieo rắc HIV về mặt địa lý. Theo nghiên cứu của Chương trình Horizons, nhóm dân số có sự di chuyển thường xuyên như lái xe đường dài, thợ xây dựng, thương nhân… đã trở thành tiêu điểm của mọi nỗ lực dự phòng HIV trên thế giới. Lý do chính là bối cảnh xã hội liên quan tới tính chất công việc đã làm tăng khả năng lôi cuốn họ vào những hành vi có nguy cơ cao và đặt họ vào tình trạng dễ bị nhiễm HIV. Đồng thời, họ sẽ trở thành “nguồn lây di động” vô tình hoặc cố ý cho người khác ở những nơi họ đến trong quá trình làm việc.
Bên cạnh đối tượng công nhân di động, dân nhập cư cũng được xem là một trong những nhóm có nguy cơ cao, vì họ sống xa nhà, có các mối quan hệ không ổn định, nhận thức hạn chế và không tiếp cận được thông tin cũng như các dịch vụ về sức khỏe sinh sản và tình dục.
Khảo sát hơn 500 lao động nam nhập cư ở TP.HCM, do Tổ chức Family Health International thực hiện, cho thấy hơn ¼ người không dùng bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần đây nhất với gái mại dâm và hơn ½ không dùng trong quan hệ với bạn tình ngẫu nhiên. Đồng thời, rất nhiều người không bao giờ dùng hoặc hiểu sai tính chất của phương tiện phòng chống rất hiệu quả này.
Thời gian qua, công tác giáo dục dự phòng cho công nhân nhập cư tại TP.HCM được quan tâm nhiều hơn, thông qua hoạt động của các tuyên truyền viên sức khỏe tại nơi làm việc. Tuy nhiên, những nỗ lực này chỉ tiếp cận được một thiểu số người lao động. Đồng thời, hoạt động tuyên truyền chỉ dừng lại ở mức phổ quát thông tin chứ chưa thật sự làm thay đổi hành vi của nhóm đối tượng này.
Các chuyên gia làm việc trong chương trình Horizons cũng nhận thấy rằng những cố gắng dự phòng tập trung vào nhóm dân nhập cư là một thách thức khi thực hiện vì khó có thể xác định nơi cư trú của họ. Trong khi, những thông điệp dự phòng tuyên truyền chung chung thường không được họ quan tâm, hưởng ứng.
Cách tiếp cận cung cấp thông tin trực tiếp tại nơi làm việc mà các cơ quan chức năng vẫn thực hiện hiện nay chỉ hướng được tới những lao động sản xuất ổn định, làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Còn đối với lao động di động thì khi họ chuyển đi một nơi khác, chương trình giáo dục tại nơi làm việc không còn tác động đối với họ nữa. Đến một nơi khác, nếu có điều kiện tiếp xúc với một chương trình dạng này, họ lại cho đó là những điều mình đã quá rành.
Nhận thức hạn chế, không được tiếp cận đủ và đúng thông tin, thiếu điểm tựa tinh thần… tuy nhiên lại rất thừa môi trường để tiếp xúc với các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, thừa cả điều kiện để xem thường tính mạng của mình; đối tượng lao động di động đang trở thành nhóm nguy cơ cao trong cả nhiễm và lây HIV/AIDS chưa được quản lý chặt chẽ…
Cuộc đời di động và cái chết bất ngờ
Ngày rời xã Tam Dân, Tam Kỳ theo bạn bè vào TP.HCM làm phụ hồ, suy nghĩ duy nhất của anh thanh niên 17 tuổi Nguyễn Trung H là để tránh xa sự mời gọi không thể thoát được của những bãi đào vàng “lậu”. Thanh niên trong xã không đi xa làm ăn thì cũng kéo nhau lên bãi đào vàng cả. Mà người vào Nam thì Tết đến còn rộn ràng kéo nhau về. Những người lên bãi vàng thì biệt tăm, đến lúc về hầu như ai cũng chỉ là một bộ xương về nhà chờ chết. Vì vậy H chọn đường vào Nam.
Làm thợ xây dựng được 3 năm, H biết tin mình nhiễm HIV trong một lần bị tai nạn lao động, phải truyền máu. Lần ấy, nghe bác sĩ thông báo, H cười, không tin, vì chẳng có lý do gì khiến anh bị nhiễm cả. “Tôi không có thói quen chơi bời, thỉnh thoảng nhậu nhẹt với bạn bè ở công trường xong là ngủ ngay. Chỉ đi “tăng hai” đúng 1 lần và lần ấy thì say bí tỷ!!!” H thậm chí còn không nhớ mình đã đi cái “vụ tăng hai” ấy ở công trường nào, thuộc tỉnh nào trên đất nước này.
Bây giờ thì H đang vào giai đoạn cuối của AIDS. Đơn độc, không bạn bè, người thân. Những người tiếp xúc với anh bây giờ là những tình nguyện viên, cũng nhiễm HIV. “Lúc phát hiện ra tôi nhiễm HIV, chủ thầu gọi đến trả 2 tháng lương, cho thêm 500.000đ và nói tôi rời công trường… Quá sốc, suốt một tuần, tôi tìm đến gái làng chơi và không dùng bất cứ một biện pháp phòng tránh nào…”
Không quá cô đơn vào giai đoạn cuối của cuộc đời như H song ấn tượng về AIDS đối với Trần Hồng L tuy mờ nhạt nhưng lại là vết cứa sâu vào tâm hồn cô. “Em nhiễm qua bạn trai. Làm công nhân xí nghiệp giày, sáng đi, chiều tối về. Em không ăn chơi, cũng chẳng bao giờ đi đến tiệm làm tóc để gọi là có nguy cơ như bác sĩ nói… Khi biết em bị nhiễm thì bạn trai của em cũng bỏ đi biệt, hỏi quanh mới biết anh ấy đã nhiều lần đi chơi bời ngoài đường…”.
Ngay hôm biết mình nhiễm, L nói cho một cô bạn biết. Đến chiều tối đi làm về, 5 người ở cùng phòng ra “tối hậu thư”: Hoặc L ra đi và họ sẽ im lặng, hoặc họ đi và tất cả mọi người trong xí nghiệp sẽ biết chuyện này. “Em không hiểu cặn kẽ gì về căn bệnh này và cũng chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ mắc phải. Thái độ của mọi người làm em hụt hẫng và cả sợ hãi. Có lẽ, cũng nên thông cảm cho họ, bởi bình thường chị em vẫn đùa nhau “chỉ cần ngồi vào chiếc ghế mà người nhiễm HIV ngồi, mình cũng bị lây. Tụi em không hiểu gì về AIDS cả”.
Bây giờ, H sống trong một trung tâm bảo trợ, thỉnh thoảng sửa sang lại những chỗ hỏng dột nho nhỏ ở trung tâm. L thì nương nhờ một ngôi chùa, phụ giúp những việc làm vườn. Cả hai không hề nghĩ đến chuyện về quê.
Nguy cơ của tính di động
Dân số di động từ lâu đã được coi là mắt xích quan trọng gieo rắc HIV về mặt địa lý. Theo nghiên cứu của Chương trình Horizons, nhóm dân số có sự di chuyển thường xuyên như lái xe đường dài, thợ xây dựng, thương nhân… đã trở thành tiêu điểm của mọi nỗ lực dự phòng HIV trên thế giới. Lý do chính là bối cảnh xã hội liên quan tới tính chất công việc đã làm tăng khả năng lôi cuốn họ vào những hành vi có nguy cơ cao và đặt họ vào tình trạng dễ bị nhiễm HIV. Đồng thời, họ sẽ trở thành “nguồn lây di động” vô tình hoặc cố ý cho người khác ở những nơi họ đến trong quá trình làm việc.
Bên cạnh đối tượng công nhân di động, dân nhập cư cũng được xem là một trong những nhóm có nguy cơ cao, vì họ sống xa nhà, có các mối quan hệ không ổn định, nhận thức hạn chế và không tiếp cận được thông tin cũng như các dịch vụ về sức khỏe sinh sản và tình dục.
Khảo sát hơn 500 lao động nam nhập cư ở TP.HCM, do Tổ chức Family Health International thực hiện, cho thấy hơn ¼ người không dùng bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần đây nhất với gái mại dâm và hơn ½ không dùng trong quan hệ với bạn tình ngẫu nhiên. Đồng thời, rất nhiều người không bao giờ dùng hoặc hiểu sai tính chất của phương tiện phòng chống rất hiệu quả này.
Thời gian qua, công tác giáo dục dự phòng cho công nhân nhập cư tại TP.HCM được quan tâm nhiều hơn, thông qua hoạt động của các tuyên truyền viên sức khỏe tại nơi làm việc. Tuy nhiên, những nỗ lực này chỉ tiếp cận được một thiểu số người lao động. Đồng thời, hoạt động tuyên truyền chỉ dừng lại ở mức phổ quát thông tin chứ chưa thật sự làm thay đổi hành vi của nhóm đối tượng này.
Các chuyên gia làm việc trong chương trình Horizons cũng nhận thấy rằng những cố gắng dự phòng tập trung vào nhóm dân nhập cư là một thách thức khi thực hiện vì khó có thể xác định nơi cư trú của họ. Trong khi, những thông điệp dự phòng tuyên truyền chung chung thường không được họ quan tâm, hưởng ứng.
Cách tiếp cận cung cấp thông tin trực tiếp tại nơi làm việc mà các cơ quan chức năng vẫn thực hiện hiện nay chỉ hướng được tới những lao động sản xuất ổn định, làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Còn đối với lao động di động thì khi họ chuyển đi một nơi khác, chương trình giáo dục tại nơi làm việc không còn tác động đối với họ nữa. Đến một nơi khác, nếu có điều kiện tiếp xúc với một chương trình dạng này, họ lại cho đó là những điều mình đã quá rành.
Nhận thức hạn chế, không được tiếp cận đủ và đúng thông tin, thiếu điểm tựa tinh thần… tuy nhiên lại rất thừa môi trường để tiếp xúc với các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, thừa cả điều kiện để xem thường tính mạng của mình; đối tượng lao động di động đang trở thành nhóm nguy cơ cao trong cả nhiễm và lây HIV/AIDS chưa được quản lý chặt chẽ…