Cap nhat ve dieu tri HIV/AIDS
[CENTER][FONT=Times New Roman][SIZE=3][IMG]http://www.khoahoc.net/photo/hiv-1.gif[/IMG][/SIZE][/FONT][/CENTER]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3][COLOR=#ffcc99][B]A- Điều Trị Hiện Thời[/B][/COLOR][/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Nhóm thuốc đầu tiên được chấp thuận để điều trị nhiễm HIV được gọi là nhóm ức chế men phiên ngược (reverse transcriptase (RT) inhibitors= RTI). Các thuốc này chặn đứng một giai đoạn sớm của chu kỳ tăng trưởng (sao chép) của virus. Nhóm thuốc này hiện nay chia thành 2 nhóm: [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Các nucleoside ức chế men phiên ngược (nucleoside RT inhibitors =NRTIs), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Và không-nucleoside ức chế men phiên ngược (non-nucleoside RT inhibitors =NNRTIs).[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]1)- [B]Nucleoside ức chế men phiên ngược[/B] (Nucleoside RT inhibitors =NRTIs) bao gồm [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]AZT[/B] (zidovudine), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]FTC[/B] (emtricitabine hay Emtriva®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]TDF[/B] (tenofovir disoproxil fumarate hay Viread®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]ABC[/B] (abacavir hay Ziagen®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]ddI[/B] (dideoxyinosine), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]ddC[/B] (dideoxycytidine), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]d4T[/B] (stavudine), và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]3TC[/B] (lamivudine). [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Các thuốc này làm chậm sự lan toả của HIV trong cơ thể và làm chậm sự khởi phát của các nhiễm trùng cơ hội. Tuy nhiên, chúng không thể ngăn cản HIV lây lan cho người khác. [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]2)- [B]Không-nucleoside ức chế men phiên ngược[/B] (Non-nucleoside reverse transcriptase inhibitors =NNRTIs), như [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]delvaridine[/B] (Rescriptor®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]nevirapine[/B] (Viramune®) và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]efavirenz[/B] (Sustiva®), được dùng phối hợp với các thuốc kháng retrovirus (antiretroviral) khác.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]3)- Nhóm thuốc thứ 3 là nhóm [B]ức chế men protease[/B] (protease inhibitors), chúng làm gián đoạn sự sao chép của virus ở một giai đoạn muộn hơn của chu kỳ sinh trưởng. Nhóm này gồm có: [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]ritonavir[/B] (Norvir®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]saquinivir mesylate[/B] (Invirase®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]indinavir[/B] (Crixivan®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]nelfinavir[/B] (Viracept®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]amprenavir [/B](Agenerase®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]atazanavir[/B] (Reyataz®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]fosamprenavir[/B] (Lexiva®), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]darunavir [/B](Prezista®), và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]tipranavir[/B] (Aptivus®).[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]4)- Một nhóm thuốc “phối hợp” bao gồm [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Kaletra®, phối hợp 2 ức chế protease là [B]lopinavir [/B]và [B]ritonavir[/B]; [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Combivir®, phối hợp [B]AZT[/B] và [B]3TC[/B] (xem phần trên); và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Trizivir®, phối hợp bộ ba của [B]abacavir[/B] (Ziagen®), [B]lamivudine [/B]và[B] zidovudine[/B] (AZT, Retrovir®). [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ Truvada® là phối hợp của 2 thuốc ([B]emtricitabine[/B] và [B]tenofovir disoproxil fumarate[/B]). [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+Epzicom® phối hợp 2 ức chế men phiên ngược (nucleoside reverse transcriptase inhibitors =NRTIs) là Epivir® ([B]lamivudine[/B], 3TC) và Ziagen® ([B]abacavir sulfate[/B]). [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Lợi điểm chủ yếu của phối hợp thuốc là “gánh nặng thuốc” được giảm thiểu và bịnh nhân dùng ít viên hơn.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]5)- Loại thuốc mới nhất để trị HIV là [B]nhóm “ức chế hoà nhập”[/B] (fusion inhibitors). Thuốc đầu tiên trong loại này là Fuzeon® ([B]enfuvirtide[/B]), nó ngăn ngừa virus HIV xâm nhập vào tế bào T (T cell), từ đó ngăn ngừa virus lây lan sang những tế bào T khác.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Do virus HIV có thể trở nên kháng với nhiều loại thuốc, việc điều trị dựa trên sự phối hợp trị liệu (“cocktail therapy”), dùng 2 hoặc nhiều thuốc cùng một lúc để ức chế virus một cách hiệu quả.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Các thuốc hiện có không trị khỏi được nhiễm HIV hoặc AIDS, và chúng đều có những tác dụng phụ có thể nguy hiểm. Ví dụ, AZT có thể làm giảm hồng cầu hoặc bạch cầu, nhất là khi dùng vào giai đoạn cuối của bịnh AIDS. DdI (dideoxyinosine) có thể gây viêm tuỵ (tuyến khá lớn nằm sau dạ dày, đóng vai trò quan trọng trong tiêu hoá thức ăn và điều hoà đường huyết của cơ thể) và gây đau đớn do tổn thương dây thần kinh. Các thuốc ức chế protease (protease inhibitors) thường gât buồn nôn, tiêu chảy và các triệu chứng rối loạn tiêu hoá khác. Nếu bịnh nhân bị đái tháo đường hoặc tăng cholesterol máu, các thuốc ức chế protease có thể gây trở ngại trong điều trị các chứng bịnh này. Chúng còn có thể tương tác với các thuốc khác, gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]6)- Một số thuốc có thể giúp điều trị các nhiễm trùng cơ hội thường xảy ra với bịnh nhân nhiễm HIV. Các thuốc này bao gồm: [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]foscarnet[/B] và [B]ganciclovir[/B] để điều trị nhiễm trùng mắt do virus cự bào ( cytomegalovirus = CMV), [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]fluconazole[/B] để trị nấm men và các nhiễm vi nấm khác, và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]trimethoprim/sulfamethoxazole[/B] (TMP/SMX) hoặc [B]pentamidine[/B] để điều trị viêm phổi do [I]Pneumocystis carinii[/I] ([I]Pneumocystis carinii[/I] pneumonia=PCP).[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]PCP là một trong những nhiễm trùng cơ hội thường gặp và gây tử vong cao nhất đi kèm với HIV. Để phòng ngừa PCP, ngưòi lớn có lượng tế bào T CD4 (CD4T-cell) thấp hơn 200 được điều trị dự phòng, đồng thời với điều trị kháng virus. Trẻ em được cho dùng điều trị dự phòng PCP khi tế bào T CD4 xuống thấp hơn số lượng bình thường của nhóm tuổi. Tất cả bịnh nhân đã sống sót qua một đợt PCP sẽ phải dùng thuốc dự phòng suốt thời gian còn lại để tránh tái phát viêm phổi, bất kỳ số tế bào T CD4 là bao nhiêu.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]7)- Bịnh nhân có sarcom Kaposi hoặc các loại ung thư khác sẽ được điều trị bằng [B]xạ trị[/B], [B]hoá trị[/B] hoặc tiêm [B]alpha-interferon[/B] là một protein tự nhiên đã được biến đổi bằng công nghệ gen.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]8)- Gel [B]Alitretinoin [/B](Panretin®) 0,1 % được dùng bôi ngoài cho các tổn thương ngoài da do sarcom Kaposi ở bịnh nhân AIDS.[/SIZE][/FONT]
[IMG]http://www.khoahoc.net/photo/hiv-2.gif[/IMG]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3][B]H 5- Sarcom Kaposi[/B][/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]9)- Triệu chứng biếng ăn sẽ được điều trị bằng 2 loại thuốc dùng theo toa đã được FDA phê chuẩn: [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]dronabinol[/B] (Marinol®), một tinh chất tổng hợp của marijuana, và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]megestrol acetate[/B] (Megace®).[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3][COLOR=#ffcc99][B]B- Các tiến bộ mới trong điều trị AIDS [/B][/COLOR][/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]Các thuốc kháng HIV đang dùng hiện nay vừa đắt tiền mà đôi khi lại khó sử dụng. Chúng không tác dụng đồng đều cho tất cả bịnh nhân, và một số người không chịu đựng nổi các tác dụng phụ. Ngoài ra, rất ít hy vọng là các thuốc này có khả năng thanh lọc hoàn toàn virus HIV khỏi cơ thể. Các điều trị ngày nay chưa đầy đủ. Cần phải phát triển thêm nhiều chọn lựa mới.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]1)- Các loại thuốc mới ức chế protease và ức chế RT đang được phát triển. Các thuốc này tác dụng ở những liều lượng thấp hơn các thuốc hiện nay và/hoặc có tác dụng đối với một quần thể virus rộng hơn (đặc biệt những chủng đã kháng trị).[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]2)- Một nhóm thuốc mới, các thuốc [B]ức chế integrase[/B] (integrase inhibitors), phá vỡ một chất hoá học gọi là integrase, mà virus HIV cần để đưa vật liệu di truyền của chúng vào tế bào của người bị nhiễm[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]3)- Một nhóm khác, các thuốc [B]ức chế ngón tay kẽm[/B] ([B]zinc finger inhibitors[/B]), nhằm vào cấu trúc “ngón tay kẽm” ("zinc finger" structure) của virus HIV không dễ dàng thay đổi bằng đột biến. Những dạng thuốc đầu tiên của nhóm này hiện đang được thử nghiệm trên người ở giai đoạn sớm.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]4)- Nhóm thuốc [B]antisense[/B] ([B]antisense drugs) [/B]là hình ảnh soi gương ("mirror image") một phần mã di truyền của virus HIV. Các thuốc này khoá vật liệu di truyền của virus và ngăn cản chúng hoạt động. Hai thuốc [B]antisense[/B], [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]HGTV43[/B] và [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]+ [B]VRX496[/B], đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3]5)- Một số phương thức đang được nghiên cứu liên quan đến cách tiếp cận mới trong điều trị nhiễm HIV, hơn là những thuốc truyền thống. Một trong những phương thức này là việc sử dụng các [B]chất “hoá động”[/B] ("chemokines") được sản xuất từ những tế bào máu kháng nhiễm trùng của người, để giảm bớt lượng những độc tố (cytokines) do HIV tạo ra. [/SIZE][/FONT]
[FONT=Times New Roman][SIZE=3][COLOR=#ffcc99][B]Bs Đồng Ngọc Khanh, BV Đa Khoa Hoàn Mỹ SàiGòn[/B][/COLOR][/SIZE][/FONT]