Hoàng SA quần đảo Vàng bị xâm chiếm
Quần đảo Hoàng Sa quần đảo giàu tài nguyên bị giặc Trung xâm chiếm năm 1974, chúng đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự, và khai thác, uy hiếp nền an ninh tổ quốc, và vừa đây chúng còn diễu võ dương oai bằng việc tổ chức 30 năm ngày giải phóng Hoàng Sa thực chất là ngày xâm lựơc Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838.
Về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa: Luận điểm, luận cứ, luận chứng pháp lý quốc tế
Vào đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, năm 1909 khi người Trung Hoa bấy giờ bắt đầu có ý đồ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa, bằng hành động thám sát lần đầu tiên vì cho rằng quần đảo này là vô chủ, các nhà nước ở Đại Việt hay Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế thời bấy giờ, với những chứng cứ sau đây:
Một là, với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa, một tổ chức bán quân sự đã được giao nhiệm vụ, riêng một mình kiểm soát qua chức năng kiêm quản đội Bắc Hải hoạt động ở phía nam biển Đông và nhiệm vụ trực tiếp khai thác định kỳ, liên tục và hòa bình các hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt, trong thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là thời Việt Nam thống nhất, trong buổi đầu triều Nguyễn từ 1802 đến trước 1815. Từ năm 1816, đội Hoàng Sa phải phối hợp với thủy quân. Hằng năm, đội Hoàng Sa hoạt động trong 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa.
Hai là, suốt thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ 1816, thủy quân được giao trọng trách liên tục xác lập chủ quyền, kiểm soát, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa.
Ba là, về mặt quản lý hành chánh, liên tục suốt trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến năm 1974, quần đảo Hoàng Sa được các chính quyền qua các thời đại ở Việt Nam thể hiện quyền lực tối thiểu của mình, đặt dưới sự quản lý hành chánh của Quảng Ngãi (khi là phủ hoặc là trấn hay tỉnh qua từng thời kỳ lịch sử) hoặc của tỉnh Thừa Thiên (thời Pháp thuộc) hoặc của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thời chia cắt Nam Bắc) rồi đến TP Đà Nẵng (thời thống nhất đất nước). Việc xác định sự quản hạt này hoặc được ghi rất rõ trong các sách địa lý của Nhà nước biên soạn như bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí hoặc Đại Nam Nhất Thống Chí của quốc sử quán dưới triều Nguyễn, hoặc do chính hoàng đế hay triều đình (Bộ Công) như thời vua Minh Mạng khẳng định, hoặc bằng các dụ, sắc lệnh, quyết định của chính quyền ở Việt Nam như dụ của Bảo Đại, triều đình Huế, Toàn quyền Đông Dương ở thời Pháp thuộc, hoặc tổng thống, tổng trưởng trong thời kỳ Việt Nam bị chia cắt, hoặc quyết định, nghị quyết của Nhà nước, Quốc hội thời độc lập thống nhất. Điều này khác với người Trung Hoa, chỉ xác định sự quản lý hành chánh sau năm 1909, tức vào năm 1921 và rồi vào năm 1947... có nghĩa là sau Việt Nam hơn 3 thế kỷ. Còn tất cả chỉ là suy diễn không có bằng chứng cụ thể rõ ràng.
Bốn là, bất cứ dưới thời đại nào, các nhà nước ở Việt Nam cũng có những hành động tiếp tục khẳng định và thực thi chủ quyền hằng năm như đo đạc thủy trình, để vẽ bản đồ do đội Hoàng Sa cuối thời chúa Nguyễn hay do thủy quân từ năm 1816 dưới triều Nguyễn (bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên hoặc Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội các, hoặc Châu bản triều Nguyễn đã ghi rất rõ). Sau này, từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1974, Việt Nam cũng tiếp tục tổ chức các đoàn thám sát, đo đạc, vẽ bản đồ.
Năm là, trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn, nhất là từ năm 1836 trở thành lệ, hằng năm đều luôn luôn tổ chức xây dựng bia chủ quyền từng hòn đảo. Trong thời bị xâm phạm cũng thế, các chính quyền ở Việt Nam luôn tiếp tục cho dựng bia chủ quyền thay thế bia bị hư hỏng.
Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã
|