Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 21

Thread: Thanh hóa!

  1. #1
    congtu_dangyeu259
    Guest



    Hãy vào các trang này mà xem về thanh hóa nha :laugh: bị mất bài thanh hóa cũ thức quá nhưng không làm gì được. :nhieuchuyen:

  2. #2
    congtu_dangyeu259
    Guest
    7 cô gái và cuộc chiến chống đại dịch HIV/AIDS


    Những đồng đẳng viên này đang chuẩn bị cho một ngày làm việc mới
    7 cô gái tuổi từ 25 - 31 trong Nhóm đồng đẳng tại thị xã biển Sầm Sơn, Thanh Hóa đang ngày đêm âm thầm hoạt động trong cuộc chiến chống đại dịch thế kỷ…


    Từ cuộc chiến trong gia đình

    Tháng 10/2004, 7 cô gái tuổi ngoài đôi mươi không ai bảo ai, tự tìm đến Trung tâm Y tế thị xã Sầm Sơn xin được làm điều gì đó mà chính họ cũng chưa biết, để hạn chế sự lây nhiễm của căn bệnh thế kỷ.

    Mới nghe, chẳng ai tin, thậm chí một vài cán bộ của Trung tâm còn nghi ngờ mục đích của họ. Mãi đến khi được nghe các cô gái tâm sự về những bi kịch trong chính gia đình họ thì người ta mới vỡ lẽ…

    P. là người đầu tiên trong nhóm dám bộc bạch suy nghĩ của mình. Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con, nhưng bằng tình cảm, sự sẻ chia và giáo dục của người cha, 5 anh chị em của P. đều được học hành đến nơi đến chốn. Cuộc sống tưởng như cứ thế êm đềm trôi.

    Cuối năm 2000, anh của P. là tài xế xe tải đường dài dính nghiện. Sau đó không lâu, qua xét nghiệm, người ta phát hiện anh đã mắc HIV… Gia đình P. dần dần tuột dốc. Bản thân P., do chán đời, lại bị đám bạn rủ rê, nhanh chóng trở thành gái bán dâm… Khu phố P. ở, nhiều người là anh em, họ hàng, bạn bè… gái thì bán dâm; trai thì tiêm chích, hút hít, trấn lột, trộm cắp.

    Một đêm sau cuộc mây mưa với khách làng chơi, P. uống rượu say, chợt nhận ra mình cô đơn giữa cuộc đời này: Gia đình tan nát, bạn bè xa lánh, anh em tan đàn xẻ nghé, chỉ còn hai bàn tay trắng… P. quyết định từ giã quãng đời nhơ nhuốc, mua vui cho thiên hạ, trở về sắm gánh hàng rong, kiếm sống qua ngày.

    Tất nhiên, để trở về với cuộc sống này, P. đã vật vã nhiều đêm, đấu tranh, dằn vặt, không ít lần tưởng như như khó có thể đứng vững vì sự cám dỗ của những đồng tiền kiếm được quá dễ của khách làng chơi. Nhưng P. đã vượt qua. Và bây giờ, P. đã lập gia đình; chồng P. là người hiểu và độ lượng với quá khứ của P.; 3 đứa con nhỏ “biết ăn ngủ, biết học hành…”.

    Sáu cô gái khác, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng tất cả đều mang trong mình nỗi đau. Người từng là gái bán dâm, người bị chồng ruồng bỏ, người sống trong gia đình có anh em là con nghiện… Họ đến với nhau trong “nhóm đồng đẳng” như một duyên nợ hay như một sự hối cải, với mong muốn không để danh sách tử thần của HIV/AIDS ngày càng dài thêm…

    Đến sự sẻ chia giữa dòng đời

    Trước tháng 10/2004, 7 cô gái hoạt động trong Nhóm đồng đẳng với công việc chính là phát phiếu điều tra về hiện trạng lây nhiễm căn bệnh thế kỷ trong các đối tượng mại dâm, nghiện hút. Cùng lúc đó, Trung tâm Y tế thị xã Sầm Sơn thành lập Nhóm can thiệp, tập hợp một số cán bộ, y bác sĩ của Trung tâm với chức năng chính là xét nghiệm, tư vấn về các vấn đề xung quanh HIV/AIDS. Sau thời gian hoạt động hiệu quả, Sở Y tế Thanh Hóa đã đưa dự án Phòng lây nhiễm HIV (DIPES) triển khai tại địa bàn thị xã Sầm Sơn. Kể từ đó, Nhóm đồng đẳng đi vào hoạt động chính thức, bài bản và khoa học hơn.

    Cái khó đầu tiên khi 7 đồng đẳng viên bắt tay vào công việc là làm sao tiếp xúc được các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cao (gái bán dâm, nghiện hút). Các đối tượng này chia làm 2 loại: đang hoạt động trong các nhà hàng; hoạt động trôi nổi, tự do. Cũng theo đó, nhóm đồng đẳng viên chia thành: tổ đường phố và tổ dịch vụ vui chơi, giải trí. Tổ đường phố có Hòa, Vệ, Phòng; tổ dịch vụ vui chơi, giải trí gồm Hạnh, Thúy, Phượng, Vân. Công việc của các cô là tiếp cận, tư vấn cách phòng lây nhiễm HIV.

    Trần Thị Hạnh (SN 1974, phường Trung Sơn) kể: Lần đầu tiên khi tham gia Nhóm đồng đẳng, Hạnh nhận nhiệm vụ tiếp cận với M. - một gái bán dâm có tiếng ở Sầm Sơn, bị nhiễm HIV. Một cô gái trông bề ngoài xinh tươi, quyến rũ như M. nếu không sử dụng các biện pháp phòng lây nhiễm HIV thì hậu họa chắc chắn sẽ khôn lường đối với cộng đồng. Bởi thế, nhiệm vụ của Hạnh không kém phần nặng nề. Gần 10 lần đến nhà hàng karaoke H.G, Hạnh đều không gặp được M.

    Gần nửa tháng sau, với sự kiên trì, Hạnh đã thuyết phục được M. Bằng sự khéo léo và chân tình, Hạnh đã tâm sự cùng M. những điều sâu kín trong lòng; chia sẻ hoàn cảnh éo le của gia đình M… Sau nhiều lần như thế, M. đã hoàn toàn tin ở Hạnh. Những câu chuyện tâm tình lồng gắn nội dung về cách phòng lây nhiễm HIV cho cộng đồng; trách nhiệm của cá nhân vì sự an toàn cho mọi người; hậu họa của căn bệnh thế kỷ đang gieo vào bao gia đình… đã được Hạnh truyền lại cho M. Dần dần, M. hiểu ra. Nhiều lần sau đó, M. đã gục vào vai Hạnh để được khóc, khóc để mong được làm lại từ đầu…

    Đồng đẳng viên Nguyễn Thị Vân (SN 1980, phường Bắc Sơn) kể cho tôi nghe một trường hợp khác. Hàng ngày, mỗi khi đi qua đoạn khuất của khu phố, Vân thấy nhiều đối tượng đang chích. Có hôm, 5 con nghiện đang chích chung một kim tiêm. Đây là một trong những hành vi dễ lây nhiễm HIV nhất. Thấy vậy, Vân đi thẳng về phía các đối tượng, chìa ra 2.000 đồng Đi mua kim mà dùng. Sau hồi ngơ ngác, một con nghiện còn tỉnh táo nhất cầm vội tờ tiền của Vân… Một lúc sau, anh ta quay lại, mang theo 4 chiếc kim tiêm và họ chia nhau chích. Chờ khi các con nghiện hết phê, Vân ngồi nói chuyện với họ, giải thích vì sao nên dùng kim tiêm một lần…

    Ước tính, thị xã Sầm Sơn hiện có khoảng 200 con nghiện, hơn 100 gái bán dâm. Trong hồ sơ quản lý của cơ quan chức năng, Sầm Sơn có 51 đối tượng nhiễm HIV/AIDS. Tất nhiên, trên thực tế, con số không dừng lại ở đó.

    Theo bác sĩ Nguyễn Thanh Hải - Cán bộ chuyên trách Trung tâm Y tế thị xã, người trực tiếp phụ trách Nhóm đồng đẳng - trong năm 2004, bằng các hoạt động thiết thực của 7 cô gái, có ít nhất 3 đối tượng là gái bán dâm từ bỏ nghề, trở về cuộc sống đời thường; 2 trong số đó đã có chồng con… Gần 15.000 bao cao su; hàng nghìn tờ rơi tuyên truyền về phòng lây nhiễm HIV/AIDS đã đến với cộng đồng thông qua 7 đồng đẳng viên…




  3. #3
    Tổng quan Thanh Hóa






    I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
    1. Vị trí địa lý:
    Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ.
    Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
    2- Địa hình:
    Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng rõ rệt:
    - Vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 839.037 ha, chiếm 75,44% diện tích toàn tỉnh,độ cao trung bình vùng núi từ 600 -700m, độ dốc trên 25o; vùng trung du có độ cao trung bình 150 - 200m, độ dốc từ 15 -20o .
    - Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện tích toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông Hoạt. Độ cao trung bình từ 5- 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc lập.Đồng bằng Sông Mã có diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng.
    - Vùng ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh,với bờ biển dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3-6 m, có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia) ...; có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển.
    3. Khí hậu:
    Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt.
    - Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1600-2300mm, mỗi năm có khoảng 90-130 ngày mưa. Độ ẩm tương đối từ 85% đến 87%, số giờ nắng bình quân khoảng 1600-1800 giờ. Nhiệt độ trung bình 230C - 240C, nhiệt độ giảm dần khi lên vùng núi cao .
    - Hướng gió phổ biến mùa Đông là Tây bắc và Đông bắc, mùa hè là Đông và Đông nam.
    Đặc điểm khí hậu thời tiết với lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

    II.- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN:
    1. Tài nguyên đất:
    Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả.
    2. Tài nguyên rừng:
    Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài; có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ … Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha .
    Rừng Thanh Hoá cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim … Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En, vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien động, thực vật quí hiếm, đồng thời là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
    3. Tài nguyên biển:
    Thanh Hoá có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Đây cũng là những trung tâm nghề cá của tỉnh. Ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ thuận lợi cho nuôi nhuyễn thể vỏ cứng như ngao, sò …
    Vùng biển Thanh Hoá có trữ lượng khoảng 100.000 - 120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao.
    4. Tài nguyên khoáng sản:
    Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng; có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác.
    5. Tài nguyên nước:
    Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2; tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mac ma và phun trào.

    III. LỊCH SỬ VÀ DI TÍCH:
    Thanh Hóa có bề dày lịch sử hào hùng và truyền thống văn hoá độc đáo. Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, Núi Quan Yên, Núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt hang Con Mong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Dậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm lịch sử, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các Vua Hùng.
    Suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ, ... Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh Hóa có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng ... càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.

    IV. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH DỊCH VỤ:
    1. Ngân hàng:
    Hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Sài Gòn thương tín... Hiện nay các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn và hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động hàng năm tăng bình quân 18%, doanh số cho vay bình quân tăng 17,3%, tổng dư nợ tăng bình quân hàng năm 17%.
    2. Bảo hiểm:
    Thanh Hoá được xác định là thị trường tiềm năng của nhiều loại hình bảo hiểm. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu trên cả nước hoạt động như Bảo Việt, Bảo Minh, ... Các công ty Bảo hiểm trên địa bàn không ngừng mở rộng thị trường, cạnh tranh lành mạnh, nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
    3. Thương mại:
    Mạng lưới thương mại Thanh Hoá ngày càng được mở rộng, hệ thống siêu thị ở đô thị và hệ thống chợ ở nông thôn phát triển nhanh, văn minh thương mại đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hộ kinh doanh cá thể tham gia ngày càng nhiều trong lĩnh vực thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng trên 23%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông-lâm-thuỷ sản (chiếm 51,4%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (24,6%), khoáng sản - vật liệu xây dựng (13,4%)… Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Bên cạnh thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Đông Nam Á, một số sản phẩm đã được xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Châu Âu.
    4. Du lịch:
    Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, là một trong những trọng điểm du lịch quốc gia. Với hàng nghìn di tích lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam và các danh lam thắng cảnh kỳ thú như bãi tắm biển Sầm Sơn, khu nghỉ mát Hải Tiến (Hoằng Hoá), Hải Hoà (Tĩnh Gia), vườn quốc gia Bến En (Như Thanh), động Từ Thức (Nga Sơn), suối cá “thần” Cẩm Lương (Cẩm Thuỷ), sân chim Tiến Nông (Triệu Sơn)… Lợi thế về địa lý, giao thông và với lòng hiếu khách của con người xứ Thanh, Thanh Hoá sẽ là điểm đến rất hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Phát triển du lịch là một trong những chương trình trọng tâm của tỉnh trong thời gian tới.

  4. #4
    V. NGUỒN NHÂN LỰC:
    1. Dân số:
    Năm 2005 Thanh Hoá có 3,67 triệu người; có 7 dân tộc anh em sinh sống, đó là: Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Hoa. Các dân tộc ít người sống chủ yếu ở các huyện vùng núi cao và biên giới.
    2. Lao động:
    Dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 2,16 triệu người, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh. Nguồn lao động của Thanh Hoá tương đối trẻ, có trình độ văn hoá khá. Lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 5,4%.

    VI. HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KỸ THUẬT:
    1. Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải:
    Thanh Hóa có hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường sắt, đường bộ và đường thuỷ:
    - Tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua địa bàn Thanh Hoá dài 92km với 9 nhà ga, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá và hành khách.
    - Đường bộ có tổng chiều dài trên 8.000 km, bao gồm hệ thống quốc lộ quan trọng như: quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng và ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi; Quốc lộ 45, 47 nối liền các huyện đồng bằng ven biển với vùng miền núi, trung du của tỉnh, quốc lộ 217 nối liền Thanh Hoá với tỉnh Hủa Phăn của nước bạn Lào.
    - Thanh Hoá có hơn 1.600 km đường sông, trong đó có 487 km đã được khai thác cho các loại phương tiện có sức chở từ 20 đến 1.000 tấn. Cảng Lễ Môn cách trung tâm Thành phố Thanh Hoá 6km với năng lực thông qua 300.000 tấn/ năm, các tàu trọng tải 600 tấn cập cảng an toàn. Cảng biển nước sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu trên 5 vạn tấn, hiện nay đang được tập trung xây dựng thành đầu mối về kho vận và vận chuyển quốc tế.
    2. Hệ thống điện:
    Mạng lưới cung cấp điện của Thanh Hoá ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt.
    Hiện tại điện lưới quốc gia đã có 508 km đường dây điện cao thế; 3.908 km đường dây điện trung thế, 4.229 km đường dây điện hạ thế; 9 trạm biến áp 110/35/6-10 KV; 38 trạm trung gian; 2.410 trạm phân phối. Năm 2005, điện năng tiêu thụ trên 1,2 triệu Kwh. Đến nay, 27/27 huyện, thị, thành phố với 94% số xã phường và 91% số hộ được dùng điện lưới quốc gia.
    Tiềm năng phát triển thuỷ điện tương đối phong phú và phân bố đều trên các sông với công suất gần 800 MW. Ngoài những nhà máy thuỷ điện lớn như Cửa Đặt, bản Uôn đang và sẽ đầu tư, Thanh Hóa có thể phát triển nhiều trạm thuỷ điện nhỏ có công suất từ 1-2 MW.
    3. Hệ thống Bưu chính viễn thông:
    Trong những năm qua, hệ thống bưu chính viễn thông của Thanh Hóa đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin liên lạc trong tỉnh, trong nước và quốc tế với các phương thức hiện đại như telex, fax, internet.
    Hiện nay, có 598/636 xã phường, thị trấn có điện thoại, đạt tỉ lệ 94%; mạng di động đã phủ sóng được 26/27 huyện, thị, thành phố, đến năm 2010 toàn tỉnh sẽ được phủ sóng mạng điện thoại di động. Tốc độ phát triển máy điện thoại hàng năm tăng nhanh, năm 2005 đạt bình quân 5,9 máy điện thoại/100 người dân, tháng 6 năm 2006 đạt 8,69 máy/100 dân.
    4. Hệ thống cấp nước:
    Hệ thống cung cấp nước ngày càng được mở rộng, đáp ứng yêu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn và các khu công nghiệp. Nhà máy nước Mật Sơn và Hàm rồng với công suất 30.000m3/ngày đêm, đang chuẩn bị mở rộng lên 50.000 m3/ ngày đêm đảm bảo cấp nước sạch đủ cho Thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn và các khu công nghiệp Lễ Môn, Đình Hương. Tỉnh đang triển khai xây dựng nhà máy cấp nước cho Khu kinh tế Nghi Sơn và các thị trấn cấp huyện. Đến nay, 80% dân số nông thôn và 90% dân số thành thị đã được dùng nước sạch. Các cơ sở sản xuất kinh doanh đều được cung cấp đủ nước theo yêu cầu.

  5. #5
    Lịch sử Thanh hóa




    Lịch sử hình thành Tỉnh Thanh hóa

    Thanh Hoá là vùng đất có từ lâu đời, một trong những cái nôi của dân tộc Việt Nam. Ngay từ thời tiền sử vùng đất này đã có người sinh sống. Qua những công cụ thô sơ trong những xưởng chế tác đá công cụ Núi Ðọ (Thanh Hoá) cho thấy, người tiền sử đã sinh sống trên mảnh đất này từ thời đại đồ đá cũ. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều công cụ đồ đá đẽo gọt tinh xảo ở Thiệu Dương (Thiệu Hoá), Ða Bút (Vĩnh Lộc),v.v.. Phát triển hơn nữa, nền văn hoá đồ đồng Ðông Sơn với trống đồng và các loại đồ đồng tinh xảo khác không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam, ở Ðông Nam á mà còn được cả thế giới biết đến. Mặt khác, Thanh Hoá còn có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả trong lĩnh vực quân sự lẫn kinh tế. Vì vậy, mảnh đất này là nơi phát tích của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam gắn với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với những kỳ tích đó, Thanh Hoá được ví như hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, theo lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là mảnh đất 'địa linh, nhân kiệt, đất đai màu mỡ, phì nhiêu...'. Cũng như nhiều vùng đất khác trên đất nước Việt Nam, trải qua quá trình lịch sử hàng nghìn năm, Thanh Hoá cũng có những thay đổi về địa giới hành chính và tên gọi.



    1. Thời Lê - Nguyễn

    Năm Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), chia nước làm 5 đạo, Thanh Hoá thuộc Hải Tây đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466) đặt tên là Thừa Tuyên Thanh Hoá; đến năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) đổi là Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo "Thiên Nam dư hạ tập" lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu.
    1) Phủ Thiệu Thiên gồm 8 huyện: Lương Giang, Ðông Sơn, Lôi Dương, Yên Ðịnh, Vĩnh Ninh, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành và Bình Giang.
    2) Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: Tống Giang, Hoằng Hoá, Thuần Hựu và Nga Giang.
    3) Phủ Tĩnh Ninh gồm 3 huyện: Ngọc Sơn, Quảng Xương, Nông Cống.
    4) Phủ Thanh Ðô chỉ có 1 huyện là Thọ Xuân.
    Thời Hồng Thuận (Lê Tương Dực 1509 - 1516), Thừa Tuyên Thanh Hoa lại đổi là trấn Thanh Hoa. Thời Lê Trung Hưng (1553 - 1788) gọi là nội trấn Thanh Hoa, sáp nhập thêm hai phủ Trường Yên và Thiên Quan của trấn Sơn Nam lệ vào trấn Thanh Hoa, gọi là ngoại trấn Thanh Hoa.
    Thời Tây Sơn lấy ngoại trấn Thanh Hoa lệ vào Bắc thành, tách khỏi nội trấn Thanh Hoa. Tên "trấn Thanh Hoa" được giữ cho đến năm 1831. Năm Minh Mệnh thứ 12 lấy nội trấn làm tỉnh Thanh Hoa và ngoại trấn làm tỉnh Ninh Bình, tên tỉnh Thanh Hoa có từ đây.
    Năm Thiệu Trị thứ 3 (năm 1843) đổi tên Thanh Hoa thành Thanh Hoá - đánh dấu sự ra đời của tên tỉnh Thanh Hoá. Tỉnh Thanh Hoá thời Nguyễn Sơ (Gia Long - Minh Mạng) gồm 4 phủ; 20 huyện, châu, thủy cơ; 89 tổng; 1.645 xã, thôn, động, sở. Trong đó:
    1) Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: huyện Tống Sơn (huyện Hà Trung ngày nay); huyện Hoằng Hoá; huyện Phong Lộc (Hậu Lộc ngày nay) và huyện Nga Sơn.
    2) Phủ Thiệu Thiên (đời Lê Quang Thuận gọi là phủ Thiệu Thiên, sau Gia Long đổi thành Thiệu Hoá) gồm 8 huyện: huyện Quảng Bằng (là phần đất của huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Thạch Thành (là phần đất Ðông Nam huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Thuỵ Nguyên (tương đương với phần đất Thiệu Hoá, một phần Thọ Xuân và Ngọc Lặc hiện nay); huyện Yên Ðịnh; huyện Lôi Dương (tương đương phần đất Thọ Xuân, Thường Xuân ngày nay); huyện Vĩnh Lộc; huyện Ðông Sơn; huyện Cẩm Thuỷ (tương đương phần đất huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước và một phần huyện Quan Hoá ngày nay).
    3) Phủ Tĩnh Gia: đời Lê Quang Thuận là phủ Tĩnh Ninh, đến thời Trung Hưng vì kiêng huý của Lê Trang Tông nên đổi làm Tĩnh Giang, sau đổi làm Tĩnh Gia. Phủ Tĩnh Gia gồm 3 huyện: huyện Ngọc Sơn (tương đương với huyện Tĩnh Gia ngày nay); huyện Nông Cống (tương đương với các huyện Nông Cống, Như Thanh và Như Xuân ngày nay); huyện Quảng Xương (tương đương với phần đất huyện Quảng Xương ngày nay).
    4) Phủ Thanh Ðô: sách "Ðại Nam nhất thống chí" chép: "... Ðời Lý, đời Trần mới khai thác, cuối đời Trần là đất trấn Thanh Ðô... Ðời Lê Quang Thuận đặt làm phủ Thanh Ðô, lệ vào Thanh Hoá Thừa Tuyên, lãnh một huyện (Thọ Xuân miền núi) và 5 huyện, châu, thủy cơ".
    Từ năm Minh Mệnh thứ 2 đến năm Khải Ðịnh thứ 10 (năm 1925), bản đồ địa giới hành chính tỉnh Thanh Hoá có thay đổi như sau:
    1) Minh Mệnh thứ 2 (năm 1821) đổi phủ Thanh Ðô thành phủ Thọ Xuân.
    2) Minh Mệnh thứ 7 (năm 1826) nhập huyện Lôi Dương vào phủ Thọ Xuân.
    3) Minh Mệnh thứ 16 (năm 1835), đặt thêm phủ Quảng Hoá gồm 4 huyện là Vĩnh Lộc - Thạch Thành - Cẩm Thuỷ - Quảng Tế (bốn huyện này từ phủ Thiệu Hoá mà ra). Hợp nhất huyện Thọ Xuân (miền núi) vào châu Lang Chánh (huyện Thọ Xuân miền núi mất từ đây).
    4) Minh Mệnh thứ 18 (năm 1837), đặt thêm châu Thường Xuân (lấy đất của các huyện Lôi Dương, châu Lang Chánh, huyện Nông Cống - châu Thường Xuân có từ đây).
    5) Minh Mệnh thứ 19 (năm 1838) đặt thêm huyện Mỹ Hoá (lấy đất ở huyện Hoằng Hoá và huyện Hậu Lộc), đặt phân phủ Hà Trung.
    6) Thiệu Trị thứ 3 (năm 1843) đổi tên Thanh Hoa thành Thanh Hoá, bỏ phân phủ Hà Trung. Huyện Hoằng Hoá kiêm luôn huyện Mỹ Hoá, (huyện Mỹ Hoá mất từ đây). Phủ Quảng Hoá kiêm thêm huyện Thạch Thành, huyện Quảng Tế và châu Quan Hoá. Phủ Thọ Xuân kiêm thêm châu Thường Xuân và châu Lang Chánh.
    7) Thành Thái thứ 1 (năm 1889), huyện Thạch Thành kiêm luôn huyện Quảng Tế (tên huyện Quảng Tế mất từ đây).
    8) Thành Thái thứ 5 (năm 1893) tách đất huyện Nông Cống (hai tổng Xuân Du và Lãng Lăng) đặt thành châu Như Xuân.
    9) Thành Thái thứ 12 (năm 1900) đặt tri huyện Nga Sơn, tách huyện Thuỵ Nguyên đặt ra châu Ngọc Lặc. Huyện Thuỵ Nguyên nhập vào phủ Thiệu Hoá (tên huyện Thuỵ Nguyên mất từ đây).
    10) Khải Ðịnh thứ 10 (năm 1925) đặt châu Tần Hoá (lấy đất 4 tổng của châu Quan Hoá là Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư).
    Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đổi tên châu Tần Hoá thành huyện Bá Thước. Cho đến sau năm 1954, bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá gồm 21 huyện, thị xã (các tên phủ, châu đều đổi thành huyện).
    Từ năm 1965 đến ngày 5-8-1999, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá có 27 huyện, thị, thành phố với 633 xã, phường, thị trấn.

    2. Thời Trần - Hồ
    Trần Thái Tông (năm 1242) đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có Thanh Hoá phủ lộ. Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông - năm 1397) đổi làm trấn Thanh Ðô. Trấn Thanh Ðô lúc này gồm 7 huyện và 3 châu (mỗi châu có 4 huyện). Trong đó, 7 huyện là:

    1) Huyện Cổ Ðằng: một phần đất huyện Hoằng Hoá ngày nay.

    2) Huyện Cổ Hoằng: một phần đất huyện Hoằng Hoá ngày nay.

    3) Huyện Ðông Sơn: là huyện Ðông Sơn ngày nay

    4) Huyện Cổ Lôi: huyện Thọ Xuân và một phần đất huyện Thường Xuân ngày nay.

    5) Huyện Vĩnh Ninh: là huyện Vĩnh Lộc ngày nay.

    6) Huyện Yên Ðịnh: là huyện Yên Ðịnh ngày nay.

    7) Huyện Lương Giang: là huyện Thiệu Hoá ngày. nay (dọc hai bờ sông Chu) cùng một phần đất của huyện Thọ Xuân thuộc tả ngạn sông Chu.

    Ba châu bao gồm:

    1) Châu Thanh Hoá gồm: huyện Nga Lạc (là huyện Ngọc Lặc và một phần đất huyện Thọ Xuân ngày nay); huyện Tế Giang (là vùng đất phía Tây huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Yên Lạc (là phía Ðông huyện Thạch Thành ngày nay); huyện Lỗi Giang (là huyện Cẩm Thuỷ và Bá Thước ngày nay).

    2) CHÂU ÁI gồm: huyện Hà Trung (phần lớn huyện Hà Trung và phía Tây thị xã Bỉm Sơn ngày nay); huyện Thống Bình (tương đương với huyện Hậu Lộc ngày nay); huyện Tống Giang (tương đương phía Bắc huyện Nga Sơn, Ðông Bắc huyện Hà Trung và phía Ðông thị xã Bỉm Sơn ngày nay); huyện Chi Nga (tương đương phía Nam huyện Nga Sơn ngày nay).

    3) Châu Cửu Chân gồm: huyện Cổ Chiến (tương đương huyện Tĩnh Gia ngày nay); huyện Kết Thuế (tương đương phía Bắc huyện Tĩnh Gia và phía Nam huyện Quảng Xương ngày nay); huyện Duyên Giác (tương đương phía Bắc huyện Quảng Xương, bao gồm cả Bố Vệ, ngày nay); huyện Nông Cống (bao gồm các huyện Nông Cống, Như Thanh, Như Xuân và một phần huyện Triệu Sơn ngày nay).

    Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hoá thành phủ Thiên Xương. Sách 'Ðại Nam nhất thống chí' chép: 'Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu Chân và ái Châu làm 'tam phủ' gọi là Tây Ðô'. Thời thuộc Minh, trấn Thanh Ðô đổi thành phủ Thanh Hoá (năm 1407 - theo Ðào Duy Anh). Sách 'Ðại Nam nhất thống chí' cũng ghi: 'Thời thuộc Minh lại làm phủ Thanh Hoá, lãnh 4 châu là Cửu Chân, ái Châu, Thanh Hoá, Quỳ Châu và 11 huyện'. Trong đó, 11 huyện là Yên Ðịnh, Nông Cống, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Cổ Ðằng, Nga Lạc, Lương Giang, Lỗi Giang, Ðông Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi.



    3. Thời Lý

    Ðến thời Lý, năm Thuận Thiên thứ nhất, Canh Tuất (năm 1010), nhà Lý 'đổi 10 đạo làm 24 lộ, Châu Hoan, Châu ái làm Trại' (Toàn thư). Sách 'Toàn Thư' và 'Cương Mục' chỉ chép tên 12 lộ trong đó có Thanh Hoá lộ. Tên Thanh Hoá có từ đây (Tân Mão - 1111). Diễn Châu lộ, Thanh Hoá lộ (tức Hoan Châu và ái Châu trước kia) thuộc Trại để phân biệt với Kinh (là các lộ thuộc vùng Thăng Long).



    4. Thời Ðinh - Lê

    Thời Ðinh - Lê Thanh Hoá vẫn là ái Châu. Ðào Duy Anh có ghi: 'Sử chép rằng: Ðinh Tiên Hoàng chia nước làm 10 đạo, hiện không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Chỉ thấy sử cũ vẫn chép các châu đời Ðường như ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu... thì biết rằng danh hiệu các châu đời Ðường bấy giờ vẫn được dùng'. Có lẽ, các huyện thuộc ái Châu vẫn giữ như cũ.



    5. Thời Tùy - Ðường

    Nhà Tùy (581 - 617) đặt tên cũ là quận Cửu Chân (đổi châu thành quận). Quận Cửu Chân đời nhà Tùy gồm 7 huyện: huyện Cửu Chân, huyện Di Phong, huyện Tư Phố, huyện Long An, huyện Quận An, huyện An Thuận, huyện Nhật Nam. Sau khi tiêu diệt nhà Tùy, nhà Ðường sắp xếp lại toàn bộ bộ máy hành chính và phân chia châu, quận. Năm Vũ Ðức thứ 5 (năm 622), nhà Ðường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lĩnh 10 châu, trong đó có ái Châu Cửu Chân quận (tức Thanh Hoá). ái Châu đời Ðường gồm 6 huyện: huyện Cửu Chân, huyện An Thuận, huyện Sùng Bình, huyện Nhật Nam, huyện Trường Lâm và huyện Quân Minh.

  6. #6
    6. Thời thuộc Hán - Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều (111 - 581)

    Sang thời thuộc Hán (111 trước công nguyên - 210), đất Thanh Hoá ngày nay là một phần quận Cửu Chân, thuộc bộ Giao Chỉ. 'Tiền Hán thư' chép: quận Cửu Chân gồm 7 huyện là Tư Phố, Cư Phong, Ðô Lung, Dư Phát, Vô Thiết, Vô Biên, Hàm Hoan.


    Sang thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều (210 - 581), theo Ðào Duy Anh dẫn Tấn thư: cuối đời Ngô (Tam Quốc - Ðông Ngô, năm Nguyên Hưng thứ nhất), Ðào Hoàng xin 'tách đất Cửu Chân mà đặt huyện Cửu Ðức'. Quận Cửu Ðức tách ra là huyện Hàm Hoan đời Hán, phần đất tương đương với Nghệ An ngày nay. Như vậy, quận Cửu Chân cuối thời Tam Quốc là phần đất tương đương với Thanh Hoá ngày nay. Quận Cửu Chân thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều bao gồm 7 huyện: huyện Tư Phố, huyện Di Phong, huyện Trạm Ngô, huyện Sùng Bình (theo Ðào Duy Anh, 2 huyện Kiến Sơ, Phù Lạc sáp nhập thành huyện Sùng Bình ở cuối đời Ðường), huyện Thường Lạc, huyện Tùng Nguyên, huyện Quân Minh.


    7. Thời Hùng Vương

    Nước Văn Lang chia làm 15 bộ, trong đó có bộ Cửu Chân. Bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang thời các vua Hùng là miền đất rất khó xác định địa giới rành mạch, có thể bao gồm Thanh Hoá, một phần đất Nghệ An và một phần đất phía Nam Ninh Bình ngày nay.




    8. Thời thuộc Pháp

    Thời thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý của triều đình Huế, có dinh công sứ Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc, bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ và huyện, tri châu, dưới nữa là chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun lý xã do dân bâù và được quan huyện thay mặt triều đình thừa nhận).

    Thời thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý của triều đình Huế, có dinh công sứ Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc, bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ và huyện, tri châu, dưới nữa là chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun lý xã do dân bâù và được quan huyện thay mặt triều đình thừa nhận). Số tổng, xã, thôn làng như cũ nhưng từ huyện trở lên thì gọn lại còn 5 phủ, 9 huyện, 5 châu ở miền núi và 1 thuỷ c phường tức là "tổng nổi" của dân chài lưới, đó là: - Phủ Hà Trung, phủ Thiệu Hoá, phủ Thọ Xuân, phủ Tĩnh Gia và phủ Quan Hoá. - Huyện Nga Sơn, huyện Nông Cống, huyện Hậu Lộc, huyện Hoằng Hoá, huyện Ðông Sơn, huyện Quảng Xương, huyện Cẩm Thuỷ, huyện Yên Ðịnh, huyện Thạch Thành. - Châu Thường Xuân, châu Ngọc Lặc, châu Lang Chánh, châu Quan Hoá, châu Như Xuân. - Một thủy cơ phường gồm 13 làng có chánh tổng đóng ở Bến Ngự - Lò Chum, TP Thanh Hoá. Năm 1925, Pháp và triều đình Huế cắt 4 tổng: Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư của châu Quan Hoá ra đặt thành một châu mới gọi là Tân Hoá; ngoài 4 tổng hay là 4 mường: mường Khô (Ðiền Lư), mường ống (Thiết ống), mường Khoàng (Cổ Lũng), mường Ai (Sa Lung) ra, Tân Hoá còn bao gồm mường Lau (Ban Công), mường Kỷ (Kỳ Tân), mường Ca Gia (Văn Nho) và mường Pa Khán (La Hán) nữa.



    9. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945

    Chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà qui định dưới tỉnh chỉ còn huyện và xã cho nên không còn phủ và châu nữa, mặc dù các tên riêng vẫn như cũ. Riêng phủ Qung Hoá đổi thành huyện Vĩnh Lộc, châu Tân Hoá đổi thành huyện Bá Thước để kỷ niệm Cầm Bá Thước.
    Như vậy, tỉnh Thanh Hoá gồm 9 huyện cũ cộng với 5 huyện do phủ đổi thành và 6 huyện do 6 châu đổi thành là 20 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ. Từ tháng 5/1954 qui định dưới huyện thì xã là cấp hành chính nhỏ nhất, các huyện đặt lại tên xã mới theo nguyên tắc lấy một chữ của tên huyện đặt trước hoặc sau tên cũ của xã hoặc làng, hoặc thôn thành tên xã như hiện nay, trừ một số huyện miền núi và riêng huyện Tĩnh Gia, Nông Cống thì không làm như vậy. Năm 1965, Chính phủ thành lập một huyện mới bằng việc tháp nhập 20 xã của Nông Cống và 13 xã của Thọ Xuân thành huyện Triệu Sơn. Năm 1977, Chính phủ quyết định sáp nhập các huyện: - Nga Sơn và Hà Trung thành huyện Trung Sơn, huyện lỵ là Lèn. - Thiệu Hoá (tả ngạn sông Chu) và Yên Ðịnh thành huyện Thiệu Yên, huyện lỵ ở Kiểu (xã Yên Trường). - Thiệu Hoá (hữu ngạn sông Chu) và Ðông Sơn thành huyện Ðông Thiệu, huyện lỵ ở Rừng Thông (xã Ðông Xuân). Từ năm 1981, Ðông Thiệu gọi là Ðông Sơn. - Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc, huyện lỵ ở phố Cống (xã Ngọc Khê). - Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch, huyện lỵ ở phố Giáng (Vĩnh Thành). Năm 1981, Chính phủ lại tách các huyện Trung Sơn thành Hà Trung và Nga Sơn, Lưng Ngọc thành Lang Chánh và Ngọc Lặc, Vĩnh Thạch thành Vĩnh Lộc và Thạch Thành như cũ. Năm 1981, Chính phủ thành lập 2 thị xã mới là Bỉm Sơn và Sầm Sơn. Ngày 1/5/1994, tại Nghị định số 07/CP, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Thanh Hoá trên cơ sở hành chính thị xã Thanh Hoá. Ngày 18/11/1996, Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ra Nghị định số 72/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện: - Huyện Quan Hoá chia thành 3 huyện: Quan Hoá, Quan Sn, Mường Lát. - Huyện Như Xuân chia thành 2 huyện: Như Xuân, Như Thanh. - 2 huyện Ðông Sơn và Thiệu Yên thành 3 huyện: Ðông Sơn, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh. Ngày 6/12/1996, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có chỉ thị số 31 TC/UB thực hiện Nghị định 72/CP. Theo chỉ thị này, từ ngày 1/1/1997, các huyện chính thức hoạt động theo đn vị hành chính mới gồm 24 huyện, 2 thị xã, 1 thành phố.

  7. #7
    Di tích - Danh thắng




    Hang Con Moong



    Cửa phía Đông của hang Con Moong, huyện Thạch Thành (Thanh Hóa).


    Hang Con Moong - một di chỉ khảo cổ học nằm trên địa bàn bản Thành Trung, xã Thành Yên, huyện miền núi Thạch Thành (Thanh Hóa) từ lâu đã trở thành một địa chỉ quen thuộc, nổi tiếng trong giới khảo cổ học Việt Nam và thế giới.

    Trong sâu thẳm, trầm tích của hang Con Moong, những vết dấu của người tiền sử vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn.

    Hiện nay, được sự ủy quyền của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa đang làm hồ sơ để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, đề cử với Tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận hang này là di sản thế giới.

    Tiềm năng du lịch sinh thái, lịch sử


    Cửa phía Tây của hang Con Moong


    Nằm trong vùng đệm của Vườn quốc gia Cúc Phương, có độ dài khoảng 40m, thông hai đầu, trần hang có chỗ cao 10m, hang Con Moong nổi bật hẳn lên với những thế mạnh của một di chỉ khảo cổ học độc đáo và nhiều điều bí ẩn. Bên cạnh những đợt khai quật khảo cổ học của các nhà khoa học trong nhiều năm qua, nơi đây còn đón rất nhiều lượt du khách trong, ngoài nước, học sinh, sinh viên đến tham quan, tìm hiểu và nghiên cứu.

    Được bảo vệ nghiêm ngặt, hang Con Moong còn giữ được nét hoang sơ, với hệ thống động, thực vật khá phong phú. Trong hang còn hằn rõ dấu tích của người tiền sử, các vết tích của những đợt khai quật. Toàn bộ hệ thống rừng nguyên sinh quanh khu vực hang hầu như còn giữ được nguyên vẹn, với nhiều loài cây gỗ quý, có đường kính lớn. Đặc biệt, tại đây còn khá nhiều động vật hoang dã như: khỉ, gấu, hoẵng, nai rừng...

    Để đến với hang Con Moong, du khách có thể đi bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Những người yêu thích khám phá rừng Quốc gia Cúc Phương thì có thể băng qua đường rừng này (theo sự hướng dẫn của các tour du lịch từ tỉnh Ninh Bình) để vào hang.

    Nếu đi đường bộ, xuất phát từ TP Thanh Hóa lên thị trấn Kim Tân (huyện Thạch Thành) theo quốc lộ 1A, 217, bạn sẽ tiếp tục vào xã Thành Yên để đến với hang này. Còn nếu du khách từ Hà Nội vào, hoặc từ các tỉnh phía Nam ra trên đường Hồ Chí Minh thì đến đoạn qua xã Thạch Quảng, (Thạch Thành) sẽ có đường vào hang.

    Giá trị khảo cổ học

    Theo các tài liệu khảo cổ học, hang này được phát hiện vào năm 1975 và được khai quật hầu như toàn bộ trong năm 1976. Tầng văn hóa trong hang rất dày (khoảng từ 3 đến 3,2m), chứa đựng vết tích văn hóa của nhiều thời đại, từ đá cũ, qua đá mới. Kết quả phân tích bằng phương pháp Carbon (C14) trên 10 mẫu của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã khẳng định niên đại của lớp sớm nhất là cách đây khoảng 15.000 năm, lớp giữa là khoảng 10.000 năm, lớp trên là khoảng 7.000 năm.

    Giá trị nổi bật nhất của hang Con Moong là lần đầu tiên phát hiện ra địa tầng có dấu vết của quá trình phát triển liên tục của con người thời tiền sử từ đá cũ đến đá mới, từ săn bắn hái lượm đến trồng trọt. Sự phát triển này là một thành tựu văn hóa vĩ đại của nhân loại.

    Những di tích liên quan như động người Xưa, hang Đắng, mái đá Mộc Long, hang Lai... quanh khu vực cùng với hang Con Moong tạo thành quần thể di tích cho thấy một cộng đồng dân cư cư trú trong một thung lũng rộng lớn, có sự thay đổi về dân số, vị trí cư trú và phương thức sản xuất. Chính các cư dân ở đây đã góp phần tạo dựng nên văn hóa Đa Bút (huyện Vĩnh Lộc) - là văn hóa của cư dân đầu tiên chiếm lĩnh đồng bằng ven biển Bắc Bộ, tạo dựng nên một nền văn hóa ngoài trời.




    Những dấu tích còn lại ở hang Con Moong, xã Thành Yên (Thạch Thành). Vết tích khai quật khảo cổ học tại hang Con Moong, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành (Thanh Hóa).


    Có thể nói, hang Con Moong đặt trong quần thể của Vườn quốc gia Cúc Phương, với 'thiên thời, địa lợi', còn nguyên vẹn, hoang sơ và kỳ bí là một trong những điều kiện thuận lợi để UNESCO xem xét, công nhận trở thành di sản thế giới. Bên cạnh đó, cuộc sống của cư dân bản địa (dân tộc Mường), với những nét đẹp văn hóa truyền thống trong sinh hoạt, giao tiếp sẽ là một trong những 'điểm nhấn' để thu hút khách du lịch đến với nơi đây.

  8. #8
    Di tích - Danh thắng 23/02/2010--->





    Suối cá Thần Cẩm Lương


    Xã Cẩm Lương - Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá (thuộc tổng Lương Điền xưa) nằm xen kẽ giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp bên tả ngạn sông Mã. Dãy núi đá vôi Trường Sinh như hình chiếc võng khổng lồ chạy suốt từ Bắc đến Đông, ôm gọn Cẩm Lương vào vòng lũng núi. Dòng sông Mã trong xanh như một dải lụa mềm trải suốt phía Tây Nam.



    Cẩm Lương, cách huyện lỵ 10km, cách tỉnh lỵ 80km về phía Tây, cư dân tương đối ổn định, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường. Đến với xã Cẩm Lương, du khách không thể không tham quan suối cá Thần Làng Ngọc. Suối cá xuất phát từ mạch nước trong ngọn núi đá vôi Bồ Um, thuộc dãy núi Trường Sinh. Đến nay, chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu chính xác về nguồn gốc của suối cá cũng như những hiện tượng về đàn cá.



    Khác với những dòng suối thông thường khác, suối chỉ dài trên 150m, có một đàn cá tự nhiên với hàng ngàn con sinh sống từ bao đời nay. Nhân dân quen gọi đây là Vó cá thần hay suối cá Thần, tất cả tên gọi này đều bắt nguồn từ truyền thuyết về Thần Rắn:



    Xưa có 2 vợ chồng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Vợ chồng hàng ngày ra thửa ruộng bên cạnh suối vừa khơi nước trồng lúa vừa xúc cá bắt ốc về làm thức ăn. Một hôm bà xúc được một quả trứng lạ. Nhiều lần xúc được lại thả xuống nước, nhưng xúc lần nào thì quả trứng lạ ấy vẫn cứ thấy nằm trong rổ. Bà mang về, vợ chồng bàn nhau đem cho gà ấp thử. Một hôm nghe tiếng gà cục tác bà vợ ra xem thì thấy trứng nở được một con rắn. Hoảng sợ, người chồng mang rắn con ra suối Ngọc để thả, nhưng cứ thả thì tối tối rắn lại trở về nhà. Dần dần rắn sống tại gia đình thân quen như những con vật nuôi khác. Từ khi có rắn ở trong nhà, đồng ruộng có đủ nước để cày cấy, đời sống trong vùng ấm no hạnh phúc vì không còn cảnh hạn hán kéo dài. Chàng rắn sống với gia đình và làng bản trong cảnh thái bình, no ấm.



    Trải qua năm tháng, chàng rắn đã to bằng ống vác nước, cứ trưa trưa lại lên xà nhà nằm. Bỗng một đêm trời mưa to gió cả sấm chớp ầm ầm, sáng ra dân làng thấy xác chàng rắn chết dạt vào chân núi Trường Sinh (vị trí đền thờ hiện nay). Thương tiếc chàng Rắn, dân làng chôn chàng ngay chân núi và lập đền thờ ngay trên mộ chàng. Dân làng được thần linh cho biết: Chàng chết vì đã đánh nhau với thuỷ quái về phá hoại bản làng và chàng đã được thượng đế phong Thần hiệu 'Tứ Phủ Long Vương'.



    Cũng từ đó, suối Ngọc trước cửa đền thờ, có đàn cá hàng ngàn con ngày đêm về chầu và nhân dân trong vùng không bao giờ ăn cá suối Ngọc, cũng như quen gọi cá thần từ đó.



    Ngay bên tả ngạn của Suối cá Thần, hiện nay vẫn còn lại nền móng của ngôi đền cổ, đó là đền Ngọc. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ XI, có các đạo sắc: 2 đạo sắc thời Lê và 1 đạo sắc vào thời Vĩnh Tộ và thời Cảnh Hưng, 1 đạo sắc vào thời Nguyễn của vua Khải Định năm thứ 8 (1924). Đền đã nhiều lần được trùng tu lại, lần trùng tu mới nhất vào năm 1928. Trải qua mưa ngàn gió núi, đền đã bị sập vào năm 1962, hiện nay chỉ còn lại nền móng.



    Theo nhân dân trong vùng kể lại, đàn cá có những con nặng tới 30kg, ngày thường không chui ra khỏi hang, mà chỉ khi mùa nước lớn, người dân mới thấy cá ra nhưng rồi lại vào ngay. Nước trong suối không bao giờ cạn, mực nước nơi sâu nhất vào mùa mưa từ chỉ từ 50 – 80cm, điều kỳ lạ là với hàng ngàn con cá sinh sống trong dòng suối chỉ dài chừng 150m nhưng nước suối quanh năm trong như ngọc, không hề bị ô nhiễm hay bụi bẩn. Những ngày thường đàn cá ở đây rất gần gũi với người và người dân nơi đây cũng không bao giờ ăn thịt cá, có những câu chuyện người ăn cá suối Ngọc đã bị thần linh bắt chết. Chỉ những ngày tế lễ “Tứ phủ Long Vương” thì dân làng xin thần được thả xúc, con nào tự chui vào xúc có nghĩa là con cá ấy tự dâng mình cho thần thì làng mới cử người mang về làm thịt tế thần linh. Lệ này đã có từ xưa, cho đến ngày nay vẫn còn duy trì.



    Từ đầu nguồn suối Ngọc leo lên dãy núi Trường Sinh, đường đi gấp khúc theo hình bậc đá, dễ dàng cho du khách tham quan danh thắng. Trên đường, du khách vừa đi vừa gạt lá để mở đường, hai bên đường là những loại cây của khu rừng già, nhiều tầng cây rợp bóng, khó có thể thống kê hết. Các loại cây đang tồn tại ở dãy núi Trường Sinh là những cây đền (họ tre) to cao, lóng dài dân vùng lấy về làm hông đồ xôi, có những cây đăng (họ sồi) cao chọc trời, thân hàng mấy người ôm.



    Từ chân núi đi lên khoảng 200m, là gặp cửa động Đăng rộng mở đón du khách. Vòm cửa động cao 7m, rộng 8m, lối vào cửa thoáng rộng dễ đi. Bước vào cửa động du khách sẽ gặp một bước bức tranh bồng lai tự nhiên đập vào mắt, những suối thạch nhũ nhiều mầu từ vách động, vòm động rũ xuống. Thạch nhũ ở đây có lẫn những tinh thể của cát, của các loại khoáng chất, cho nên phát sáng giống như những khối kim cương khổng lồ ôm lấy vòm động. Động Đăng cao ráo rộng rãi, sạch sẽ.




    Những mảng thạch nhũ kỳ lạ lát kín vách động và vòm hang, do thạch nhũ tự nhiên cấu trúc có hình thể kỳ lạ, du khách giầu trí tưởng tượng, hẳn sẽ xây dựng được những huyền tích thú vị theo mỗi bước chân.

    Đã từ lâu, nhân dân địa phương đặt tên cho những cột thạch nhũ tiêu biểu nhưng rất giống với những hình thể sự thật cốt truyện. Tượng “Hạnh phúc” là cột nhũ như đôi trai gái đang đứng ôm hôn nhau thắm thiết, suối tóc cô gái để dài xuống lưng và tràn xuống gót; Tượng nhũ “Mẹ con” giống hệt một người mẹ trẻ tràn đầy sinh lực đang cõng một đứa con mập mạp; Kho lúa, từng tảng nhũ như những bó lúa chảy tràn tầng tầng lớp lớp từ vòm động đến các vách hang; Nhũ búa trời như một quả phật thủ nặng ngàn cân treo lơ lửng trên vòm động như sẵn sàng thực hiện công lý của trời đất … Những cảnh kỳ ảo trong lòng động không ai có thể tả hết. Từ động Đăng đến động Đắng có những bức tranh toàn mỹ bằng chất liệu nhũ đá cuốn hút lòng người.



    Những năm gần đây, môi trường tự nhiên đã và đang bị con người tàn phá làm ảnh hưởng đến không chỉ cuộc sống của chúng ta mà còn ảnh hưởng đến rất nhiều các loài động, thực vật. Thế mà làng Ngọc vẫn còn một suối cá tự nhiên độc nhất vô nhị của đất nước. Điều đó càng minh chứng cho ý thức trách nhiệm của người dân nơi đây, cũng như các ngành hữu quan để suối cá thần Cẩm Lương trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong cả nước về sự độc đáo và nguyên sơ của nó.

  9. #9
    anh congtu_dangyeu259 cũng ở Thanh Hóa hả? Ngọc cũng ở Thanh Hóa nè mà không biết nhiều về TH như vậy đâu, hihi chắc tại vô tâm quá, hôm nay đọc bài nghe anh nhắc về TH tự dưng thấy nhớ nhà kinh khủng khiếp. Hôm nào anh em mình nói chuyện về quê hương nha, để tìm lại một tí kỉ niệm ngày bé vì gia dình em chuyển vào Gia Lai rồi nên quê hương cứ thấy xa vời vợi, nhiều khi thấy nhớ nhưng cũng chỉ để nhớ thôi, không chạm được vào

  10. #10
    Động Từ Thức - Nga Sơn


    Từ thủ đô Hà Nội, vượt 120km đường quốc lộ 1A đến huyện Hà Trung rẽ về Nga Sơn, chúng ta sẽ dễ dàng đến được động Bích Đào. Động Bích Đào, hay còn gọi là động Từ Thức - Gắn liền với câu chuyện Từ Thức lên cõi tiên đầy thi vị.



    Ở làng Cẩm La xưa, thuộc Tống Sơn (nay thuộc huyện Nga Sơn) có chàng thanh niên là Từ Thức. Khoảng cuối đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388 - 1398) Từ Thức được bổ làm quan tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh ngày này). Ông nổi tiếng thanh liêm, chính trực và yêu thích ngao du sơn thuỷ. Mùa xuân năm Bính Tý (1396) Từ Thức đi chơi hội “mẫu đơn” ở một ngôi chùa đẹp nổi tiếng, đã gặp một thiếu nữ xinh đẹp bị nhà chùa giữ lại vì vô tình làm gãy một cành hoa mẫu đơn. Động lòng thương, Từ Thức liền cởi áo gấm chuộc lỗi cho cô gái.



    Vốn là người yêu thích nghệ thuật, chán ghét lợi danh nên nhân việc chịu tang mẹ, Từ Thức treo ấn từ quan.



    Về quê, chàng ngày ngày ngao du sơn thuỷ. Một ngày kia, tới cửa biển Thần Phù (Nga Sơn), chàng bỗng thấy phía khơi xa có một ngọn núi tuyệt đẹp. Chàng liền chèo thuyền ra xem và làm một bài thơ khắc trên vách núi đá. Bỗng từ vách núi nứt ra một cửa động, chàng bước vào, thì đấy là một chốn bồng lai tráng lệ. Chàng đang mải mê thì có hai thiếu nữ áo xanh mời chàng và cửa hang liền khép lại. Chàng được đưa tới gặp một vị tiên áo trắng, vị tiên đón tiếp ân cần và cho chàng biết đây là động Phù Lai, động thứ 6 trong 36 động cõi tiên, và cho biết chàng sẽ kết duyên với con của gái bà là Giáng Hương - cô gái được chàng cứu trong dịp hội “mẫu đơn” năm nào.




    Từ Thức cùng Giáng Hương đã sống những ngày hạnh phúc ở cõi tiên. Nhưng ở chốn cực lạc, chàng vẫn không nguôi nhớ quê hương, nhớ những cuộc ngao du. Chàng đã ngỏ lời được về thăm quê, khuyên chồng không được, Giáng Hương đành phải bằng lòng cho chàng cưỡi xe mây về trần. Về tới quê, chàng bàng hoàng vì cảnh quê vẫn như xưa nhưng không còn gặp lại ai chốn quê cũ nữa. Chàng hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ ở trong làng và được kể rằng, thuở nhỏ, cụ được nghe nói có ông tam đại tên là Từ Thức treo ấn từ quan, đi ngao du rồi mất tích.



    Chàng buồn bã chán ngán, một năm tiên giới bằng trăm năm trần gian. Chàng hối hận muốn quay lại cõi tiên, nhưng xe mây đã biến mất, mở phong thư mà Giáng Hương trao cho lúc tiễn biệt, thì đấy chính là lời biệt ly:

    Kết hoan hỷ (ư) vân trung, tiên duyên dỹ đoạn
    Phỏng tiên sơn (ư) hải thượng, hậu hội vô nhân
    (Kết bạn loan trong mây, duyên xưa đã dứt

    Tìm núi tiên trên biển, dịp khác không còn).



    Chàng buồn, thất vọng đi về phía núi Ngũ Hàn Sơn (Nông Cống), rồi sau đó biệt tích.

    Động Bích Đào, dấu tích của chàng Từ Thức du tiên thuở xưa, nằm trên hệ thống núi đá vôi được kéo dài từ Tam Điệp (Ninh Bình) đến cửa Thần Phù (Nga Sơn - Thanh Hoá).



    Đi vào lòng động, nhũ đá nhỏ xuống, đụn nhũ nhô lên, tạo nên cảnh trí huyền ảo với nhiều dáng hình gây trí tưởng tượng kỳ thú: "Này đây Đụn gạo, kho tiền, này kia bồn muối, vườn cây trái có đầy đủ các loại, rồi mâm xôi, thủ lợn, rồi phường bát âm, gõ vào tạo nên một thứ âm thanh thú vị. Rồi bàn cờ tiên, một bàn đá phẳng lỳ có đầy đủ các quân cờ, đường kẻ… ” như thể chàng Từ Thức cùng các vị tiên vừa tỉ thí với nhau ở đây và mới đứng dậy đi ngao du đâu đó.



    Đi sâu vào chút nữa, chếch về phía bên trái, ta gặp vũng nước trong vắt, mát dượi, đây những hòn cuội trắng, xinh, kế bên là ao bèo (bằng đá) với những lớp bèo cũng bằng đá, bồng bềnh điểm những chùm hoa trắng lục, rồi những nhũ đá hình ống chầu, ếch toạ …



    Cuối động cũng có đường lên trời, lại có đường xuống âm phủ. Theo những bậc đá đều nhau thì đấy là đường lên trời, tương truyền, đây là đường mà Từ Thức cùng các nàng tiên đi thưởng ngoạn, những nhũ đá nhô ra cũng mang dáng của những giá áo, giá mũ khi chàng dừng chân nơi đây.

    Còn đường xuống âm phủ cũng chính là một cửa hang ăn sâu xuống lòng núi với những bậc đá gập ghềnh, tối tăm, ẩm ướt, hun hút, nhiều ngách, nhiều lối khiến cho ai bạo dạn cũng chỉ xuống được vài bước rồi phải đi ngược trở lại.



    Truyền thuyết Từ Thức lên tiên và đặc biệt là cảnh tích kỳ thú của động Bích Đào đã từng là nơi hấp dẫn đối với nhiều tao nhân, mặc khách, nhiều danh sỹ hiền nhân như: Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quý Đôn, Trịnh Sâm, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng… Và ngay tại cửa động, vẫn còn lưu bài thơ chữ Hán của Lê Quý Đôn khắc trên một phiến đá - đã mấy trăm năm trôi qua nét chữ vẫn còn sắc như mới khắc

Page 1 of 3 123 LastLast

Similar Threads

  1. Thanh Đa - bóng tối ly cà phê
    By lisaqn in forum Đọc báo cho bạn
    Replies: 1
    Last Post: 08-08-04, 10:10 PM
  2. Bệnh hình thức của thanh niên
    By ChieuSGBuon in forum Tuổi trẻ Việt Nam - Hãy hành động...
    Replies: 1
    Last Post: 19-07-04, 03:59 PM
  3. Hoạt động của diễn đàn thanh niên
    By chitcon289 in forum Đọc báo cho bạn
    Replies: 0
    Last Post: 18-07-04, 06:19 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •