Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 21

Thread: Thanh hóa!

  1. #11
    Quote Originally Posted by tho ngoc_q9 View Post
    anh congtu_dangyeu259 cũng ở Thanh Hóa hả? Ngọc cũng ở Thanh Hóa nè mà không biết nhiều về TH như vậy đâu, hihi chắc tại vô tâm quá, hôm nay đọc bài nghe anh nhắc về TH tự dưng thấy nhớ nhà kinh khủng khiếp. Hôm nào anh em mình nói chuyện về quê hương nha, để tìm lại một tí kỉ niệm ngày bé vì gia dình em chuyển vào Gia Lai rồi nên quê hương cứ thấy xa vời vợi, nhiều khi thấy nhớ nhưng cũng chỉ để nhớ thôi, không chạm được vào
    Mình củng ở Thanh Hoá mừ, nếu rảnh thì qua YIH: giap_pham1980 mình nói chuyện

  2. #12
    Vườn quốc gia Bến En


    Nằm cách thành phố Thanh Hoá 46 km về phía Tây nam, vườn quốc gia Bến En là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với bất kỳ ai yêu thích vẻ nguyên sơ của tạo hoá. So với các Vườn quốc gia ở phía Bắc như: Ba Bể, Ba Vì, Tam Đảo, Cúc Phương .. vườn Bến En có tầm cỡ thực sự về tiềm năng du lịch sinh thái.

    Vườn Bến En trải rộng trên 2 huyện Như Xuân và Như Thanh với tổng diện tích 16.634ha, chia làm 3 khu vực chính, trong đó khu bảo tồn nguồn gien là nơi 'cấm địa' của vườn (chỉ những nhà khoa học mới được phép tìm hiểu, nghiên cứu), ở đây hệ thực vật rất phong phú với hàng trăm loài, bộ, họ (Có họ có tới 10 loài) như các loại cây lim xanh rất đặc trưng (có cây lên tới cả ngàn tuổi) cây trò trĩ và các loài thuốc nam quý … Tính đặc trưng của vườn có những nét đẹp và phong phú rất khác các vườn quốc gia khác. Hệ động vật cũng vậy, các loài quý hiếm ở đây là voi, hổ, gấu, chim …tồn tại trong 37 bộ, 96 họ, 216 giống và 309 loài, các loài Voi, Vượn má trắng, hổ ...thuộc loại quý hiếm đang được bảo vệ. Tuy nhiên, ở phân khu du lịch sinh thái dường như gần gũi với du khách hơn cả. Khu này gồm lòng hồ được hình thành bởi 4 con suối và con sông Mực có diện tích rộng khoảng 3.500 ha, nước bốn mùa xanh biếc, tĩnh lặng trong quần thể không gian trời, mây, non, nước hữu tình. Du khách sẽ thoả lòng khi đến thăm 21 hòn đảo với những sắc thái rất khác nhau bằng các chuyến ca nô, xuồng máy ....Đặc biệt, tại đây có 8 tuyến đi du lịch trên hồ thăm các ốc đảo. Trong 8 tuyến đi (cơ bản tuỳ theo sự lựa chọn của khách) tuyến ngắn nhất là 1,5km và tuyến dài nhất 8,5km.

    Du khách có thể đến thăm đảo động vật, đảo thực vật, chiêm ngưỡng hang Dơi, ngắm cảnh hang động với nhiều hình thù kỳ lạ được sắp đặt bởi bàn tay của tạo hoá. Hơn thế nữa, du khách có thể đi vào các bản làng của người H'Mông, người Thổ uống rượu cần … hoàn toàn phù hợp với tour du lịch cộng đồng. Ở các đảo động vật, các loài thú được bảo vệ, nuôi nấng theo hình thức bán hoang dã nên mọi hoạt động sinh hoạt của nó đều tự nhiên đến lý thú. Trong đảo thực vật bao gồm tất cả các loài cây có tên ở Việt Nam, được trồng phân theo từng loại, từng bộ, họ … đã phục vụ rất tốt cho các nhà khoa học, ngành lâm nghiệp, môi trường sinh thái và khách du lịch …

    Trên tuyến bộ bắt đầu từ trung tâm vườn đi lên khu phía Bắc, chúng ta sẽ bắt gặp những cảnh quan không kém phần hấp dẫn so với nội khu. Đó là cụm núi đá Hải Vân tồn tại song song với 21 hòn đảo trong lòng hồ, cụm di tích hang Lò Cao kháng chiến - nơi Giáo sư Trần Đại Nghĩa từng chế tạo vũ khí từ năm 1945 phục vụ kháng chiến chống Pháp. Đi xa hơn nữa, khách du lịch có thể đến Phủ Sung, Phủ Na - nơi nhân dân vẫn thường tổ chức phường hội cúng tế trời đất … Tiếp đó là quần thể thắng cảnh hang Ngọc, cây lim trăm tuổi như biểu tượng của vườn. Trong hang Ngọc, một suối nước trong vắt, theo quan niệm nếu tắm được ở đây có nghĩa là đã cởi bỏ được những tục trần nặng nhọc nhất của cuộc sống đời thường. Có lẽ chính vì thế mà hang Ngọc tuy có xa hơn một chút so với các đảo trên lòng hồ Bến En, song vẫn là điểm được khách đến đông hơn cả.

    Đến Bến En, dù là du lịch sinh thái, song nếu đặt trước vẫn có thể được hưởng những món ăn đặc sản như: món cá quả, cá mè.. rất to được bắt từ sông Mực có thể nướng hoặc luộc, hấp … Mùa hè có thể ăn thêm món trai dắt vách đá (một loại nhuyễn thể gần giống với ốc) đặc biệt mang hương vị của rừng.

    Bến En hôm nay đang được quan tâm chú ý đúng mức, đến khả năng du lịch sinh thái và nhiệm vụ bảo tồn. Với những thế mạnh vốn có, có thể khẳng định Vườn Quốc gia Bến En với đảo, rừng, sông, suối, hồ nước, hang động và sự trân trọng của con người, Bến En sẽ là điểm du lịch sinh thái lý tưởng

  3. #13

    Thành nhà Hồ

    Thành Tây Đô - một ngôi thành đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam, thuộc địa bàn xã Vĩnh Yên, Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 45km về phía Đông, cách thị xã Bỉm Sơn 30km về phía Bắc và cách Hà Nội 145 km về phía Bắc. Nhân dân vẫn quen gọi Thành Tây Đô là Tây Giai, An Tôn hay Thành Nhà Hồ - vì người chủ trương xây dựng thành là Hồ Quý Ly, người đã dựng nên một triều đại phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XV.



    Những năm cuối thế kỷ XIV, triều Trần đi sâu vào con đường suy yếu. Phía nam đất nước, quân Champa đã nhiều lần kéo ra cướp phá, kinh thành Thăng Long bị chúng hai lần tiến đánh khiến vua quan nhà Trần phải rời bỏ kinh thành. Phía bắc giặc Minh cũng lăm le giòm ngó, tìm mọi cách để âm mưu thôn tính nước ta.



    Trước tình thế trên, Hồ Quý Ly Một viên qan đầu triều, nắm giữ quyền lực trong tay dã chuẩn bị một kế hoạch đối phó mới với tình hình của đất nước. Vì vậy năm 1397, Hồ Quý Ly sai viên thượng thư Bộ Lại, kiêm Thái sử lệnh là Đỗ Tĩnh vào nghiên cứu vùng đất Thanh Hoá, một căn cứ địa vững chắc đồng thời là quê hương của họ Hồ để xây dựng thành trì chuẩn bị cho việc rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hoá. Các làng Tây Giai, Xuân Giai, Đông Môn, thuộc xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long và An Tôn xã Vĩnh Yên được chọn làm nơi xây dựng kinh thành. Khi thái tử An, tức cháu ngoại của Hồ Quý Ly lên ngôi lấy niên hiệu là Thiếu Đế, Thành Tây Đô trở thành kinh đô của nước ta từ đó. Đến năm 1400 vua Thiếu Đế qua đời, Quý Ly chính thức lên ngôi vua lập nên triều Hồ.



    Đến bây giờ, chúng ta không khỏi khâm phục trước tài nghệ xây dựng vật liệu bằng đá khối như đối với thành đá Tây Đô. Đặc biệt với thời gian chỉ vẻn vẹn 3 tháng (từ mùa xuân 1397), toàn bộ bức thành đồ sộ đã được xây dựng bằng đá khối, trong đó có những phiến nặng lên tới trên 2 tấn trong khi không có một thiết bị hiện đại vận chuyển lên cao nào ngoaì sức người thuần tuý và cũng chỉ 3 năm (Đến 1400), toàn bộ kinh thành đã được xây dựng hoàn tất với các điện, đài nguy nga, tráng lệ. Cho đến hôm nay, kỹ thuật xây dựng thành vẫn là một điều bí ẩn đối với khoa học xây dựng thế kỷ XX. Nhìn những phiến đá lớn được mài nhẵn, chồng khít lên nhau, tạo nên bức tường thành đồ sộ, ai cũng tự đặt câu hỏi không biết người xưa đã sử dụng phương tiện gì để vận chuyển và nâng lên cao những khối đá lớn như vậy?




    Về mặt kiến trúc, thành có hình chữ nhật, mở ra bốn cổng Đông, Tây, Nam, Bắc gọi là cổng, Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Trong đó cổng tiền là còn nguyên vẹn hơn cả. Cổng mở ra ba cửa, cửa giữa rộng 5,8m cao 8m, hai cửa hai bên rộng 5m cao 7,8m. Tất cả các cổng đều được xây cuốn vòm, kiến trúc chữ U, bằng đá xanh đen mài hình muối bưởi, nhờ trọng lượng nên chúng tự nêm chặt vào nhau. Các cánh cổng đều được làm bằng gỗ lim phiến dầy, dưới chân có lắp hai bánh xe bằng đá. Tất cả các bức tường thành đều cao trên 6m, trên mặt có đường đi rộng 4m. Tường thành xây bằng những viên đá khối lớn 2m x 1m x (0,7m). Những viên đá quá nặng phải đắp đất seo lên mới xây dựng được. Mặt trong thành lèn đất day như đắp đê. Từ cửa Nam có một con đường lát đá hoa chạy xuyên suốt trục bắc nam của thành vươn đến tận chân núi Đốn Sơn (Núi Đún), là nơi dựng đàn tế Nam Giao của triều Hồ.



    Ông chủ trương chia Tây Đô làm hai; khu thành nội và khu thành ngoại. Khu thành ngoại là toàn bộ khu dân cư gồm các làng xã, phố phường, nơi mọc lên cả các dinh thự của các quan lại. Hồ Quý Ly còn cho trồng tre, đào hào thành sông để nối liền với sông Mã, Sông Bái để tiện việc chuyên trở, sử còn ghi “sai Trần Ninh đốc thúc người phủ Thanh Hoa trồng tre gai, phía nam từ Đốn Sơn, Phía bắc từ An Tôn phía tây từ Vực Sơn vây bọc làm La Thành” đến nay các vết tích đó còn lại không nhiều, chỉ còn lại dấu tích của những hào sâu bao bọc quanh thành mà thôi.



    Đương thời Hồ Quý Ly đã cho kiến thiết trong nội thành các cung điện, nhà cửa, phố xá, sân hồ… chẳng khác gì ngoài Thăng Long, chỉ khác là các cung điện của thành Thăng Long được xây dựng bằng gỗ còn các cung điện của thành Tây Đô được xây dựng và trạm trổ hoàn toàn bằng đá khối. Theo các thư tịch cũ cho biết thì trong thành thời đó có điện Hoàng Nguyên, các cung Diên Thọ, Phù Cực, Đông Cung, núi Thọ Kỳ, hồ Dục Tượng… rất nguy nga tráng lệ. Năm 1403 lại còn xây dựng thêm hai công trình kiến trúc nữa là Đông Thái Miếu và Tây Thái Miếu. Cũng tại nội thành này là địa điểm để tổ chức các kỳ thi Thái học sinh (tiến sĩ), đó là vào năm 1400 dưới triều Hồ Quý Ly và năm 1405 dưới triều Hồ Hán Thương.



    Hiện nay, trong thành di vật còn sót lại có giá trị nhất là đôi rồng đá. Nhưng cũng thật đáng tiếc, trải qua thời gian, do không được bảo vệ và ý thức người dân chưa cao nên đôi rồng đá đã bị mất đầu. Dù sao thì đây vẫn là hiện vật có giá trị nhất. Đôi rồng mỗi con dài mươi thứơc, uốn khúc uyển chuyển và hùng dũng như đang bay. Cái tráng khí hào hùng ấy do bàn tay tài hoa của người thợ đá làng Nhồi tạc nên.



    Trên 6 thế kỷ đã trôi qua, Tây Kinh – một kinh thành đồ sộ với các điện đài nguy nga tráng lệ. Song tất cả chỉ còn là đống đổ nát, không một vết tích đền đài nào còn sót, chỉ còn lại bức tường thành là có thể minh chứng cho một triều đại đã tồn tại, cũng như mãi mãi khẳng định một loại hình kiến trúc độc đáo, tiến bộ bậc nhất của Việt Nam - Kiến trúc thành luỹ bằng đá.

  4. #14

    Khu văn hóa Hàm Rồng

    Hàm Rồng thuộc địa phận phía Bắc thành phố Thanh Hoá, đây là một trong những thắng cảnh nổi tiếng từ thời tiền sử, đồng thời cũng là một địa danh ghi dấu lịch sử oai hùng của dân tộc ta.

    Dòng sông Mã bắt nguồn từ dãy núi Pu Va ở Tây Bắc Tổ quốc hùng vĩ có độ cao trung bình 400 m so với mặt nước biển. Bình thường nước sông chảy đã mạnh, mùa mưa lũ càng thêm dữ dội. Cũng từ hướng đó, dãy núi Đông Sơn hùng vĩ, cái nôi của nền văn hoá đồng thau Đông Sơn, núi tiếp núi như một con rồng uốn mình vươn tới. Sông núi đến đây gặp nhau làm thành cái thế "Long Mã tranh châu". "Châu" ở đây là ngọn Châu Phong (thường gọi là núi Ngọc hoặc núi Nít) ở bờ Bắc sông Mã. Bờ Nam là núi Đầu Rồng (thường gọi là Long Hạm hoặc Hàm Rồng) với hai cửa hang như hai con mắt đau đáu nhìn sang núi Ngọc. Ngựa và Rồng đuổi Ngọc đến đây, con rồng vừa há miệng ra đớp ngọc thì đuôi ngựa đã quật ngang cho ngọc rơi xuống sông. Chính vì vậy dưới đáy sông Mã ở đoạn này là cả một ngọn núi đầy hang huyệt. Con ngựa chăn ngọc ở bờ Bắc, con rồng nằm phục ở bờ Nam. Ca dao xưa có câu:

    Thanh Hoá thắng địa là nơi

    Rồng vờn hạt ngọc, hạc bơi chân thành.

    Thời Lê năm 1078, vua Lê Thánh Tông về thăm quê Thanh Hoá. Người đã cho dừng thuyền ngoạn cảnh Hàm Rồng. Người men theo sườn núi vào động Long Quang rồi lên đỉnh núi Đầu Rồng ngây ngất ngắm nhìn một vùng non nước và cảm hứng:

    "Đây núi kia rừng, tiên phật quá

    Như mời du khách đến cùng say".

    Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, nhà văn hoá kiệt suất năm 1430 tháp tùng vua Lê Lợi về thăm viếng quê Thanh, lúc trở ra Thăng Long, có dừng chân ở Hàm Rồng (lúc đó tên là Long Đại) ông rất chú ý đến cảnh sắc thiên nhiên của sông núi ở đây và đã làm bài thơ bằng chữ Hán "Long Đại Nham":

    Khử niên hổ nguyệt ngạc tằng khuy

    Long Đại kim quan thạch huyệt kỳ

    Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động

    Kình du tắc hải, hải vị trì
    Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão

    Thế thượng anh hùng thử nhất thì

    Lê, Phạm phong lưu ta tiệm viễn

    Thanh đài bán thực bích gian thỉ.

    Tạm dịch:

    Năm xưa mình đã dòm hang cọp

    Nay ngó non, Rồng cảnh lạ sao

    Ngao nổi đôi non, non có động

    Kình bơi lấp biển, biển thành ao
    Trong bầu ngày tháng còn vui mãi

    Một thuở anh hùng trở lại đâu

    Lê, Phạm phong lưu ôi đã vắng

    Thơ đề vách đá nửa xanh rêu.

    Ông đã khắc hoạ nét hùng vĩ của Hàm Rồng, xem đó là một kỳ công của tạo hoá từ thuở khai thiên lập địa. Ông đã khai thác kho tàng huyền thoại để minh hoạ cho ý thơ của mình. Truyền thuyết nói rằng: Núi Hàm Rồng vốn là một ngọn núi tiên, chỗ ở của các vị thần thánh trên thượng giới. Nhưng quả núi này chân không gắn chặt với đáy biển, cứ bồng bềnh trên mặt nước mênh mông. Do đó, thượng đế phải sai mấy con ngao đến đội núi lên để giữ cho vững. Núi đã vững nhưng chung quanh vẫn còn là biển lớn, chưa tiện cho sự đi lại nên Thượng đế lại sai những con kình quẫy khúc làm cho nổi đất lên, tạo ra một khoảng đất bằng chung quanh núi. Biển bị lấp còn một ít chỗ không lấp hết trở thành ao. Đó là nội dung hai câu thơ 3 và 4. Bài thơ còn nhắc đến những chiến công lẫy lừng trong quá trình dựng nước và giữ nước như năm 1382, Hồ Quý Ly đã thắng quân Chiêm Thành trong một trận kịch chiến ở đây. Ngoài ra, tác giả còn nhắc đến những học giả có tiếng tăm thời Trần: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, những người đã đề thơ ở động Long Quang.

    Xưa kia, khi chưa có cầu, nhân dân hai bờ qua lại bằng đò ngang. Đầu thế kỷ 20, C.A Ra Gông - một chuyên gia về cầu ở Đông Dương, khi khảo sát để bắc cầu, đã nêu ra những cái khó ở đoạn sông Hàm Rồng: đáy sông đầy hang huyệt, nên không thể xây trụ giữa được, lũ lụt hàng năm không cho phép kéo dài thời gian thi công trên mặt nước (trước đó, cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp thuê kỹ sư Đức bắc cầu có trụ ở đây, cầu chưa xong đã bị lũ lớn cuốn mất, ông kỹ sư người Đức đã nhảy xuống sông tự vẫn). Chính vì thế thực dân Pháp phải xây cầu treo, hai kỹ sư người Pháp là Đay - Đê và Pillê thiết kế, chỉ đạo thi công, cầu treo gối lên sườn hai ngọn Châu Phong (bờ Bắc) và Mắt Rồng (bờ Nam). Cầu treo hình cánh cung bán nguyệt thi công trong 4 năm (1904 - 1908). Khẩu độ hẹp ô tô và tàu hoả không thể qua một lúc được. Chiếc cầu cánh cung xưa và cầu thép có trụ hiện nay là điểm trung tâm của toàn cảnh Hàm Rồng.

    Thi sĩ Tản Đà có bài cảm tác "Qua cầu Hàm Rồng":

    … Hàm Rồng nay lại qua Thanh

    Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân …

    và khi ở xa Hàm Rồng, thi sĩ còn viết:

    Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây …
    Kháng chiến chống Pháp, năm 1946, quân dân ta phá sập chiếc cầu cánh cung do Pháp xây dựng. Hoà bình lập lại, năm 1961, đội cầu Trần Quốc Bình (Trung Quốc) thiết kế cầu mới có trụ và cán bộ công nhân ta thi công. Cầu vẫn được đặt trên hai hố cũ, nhưng có trụ giữa bằng 12 trụ ống, mỗi trụ đường kính xoáy sâu. Tháng 06 năm 1963, chiếc cầu hữu nghị được thông xe. Cầu mới dài 168 mét, chắc chắn hơn, to đẹp hơn, trọng tải lớn hơn cầu cũ nhiều. Đó là một kỳ công của kỹ sư và công nhân ta.

    Kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chiếc cầu đó đã làm giảm uy lực của không quân Hoa Kỳ, 117 máy bay tối tân của Mỹ đã bị quân dân ta bắn cháy, vùi xác dưới đáy sông. Sau những ngày mưa bom bão đạn, cầu Hàm Rồng vẫn đứng hiên ngang, nối liền hai bờ Bắc Nam cho đến ngày đất nước toàn thắng, Nghĩa trang liệt sĩ linh thiêng sườn đồi Quyết thắng ngày đêm hương khói tưởng nhớ những liệt sĩ anh hùng đã hy sinh bảo vệ non nước này. Một chính khách nước ngoài đến thăm Hàm Rồng đã phải thốt lên: "Thật kỳ lạ, trong lịch sử chiến tranh phá hoại bằng không quân trên thế giới, chưa có chiếc cầu nào được bảo vệ lâu đến như vậy". Cây cầu thép hiện nay đang sử dụng đã được các kỹ sư Việt nam sửa lại năm 1974, hàng ngày vẫn soi bóng xuống lòng sông chói ngời dấu ấn chiến thắng.






    Mảnh đất kiên cường ấy đã ghi nhiều kỳ tích trong chiến đấu và xây dựng là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

    Có nhà thơ đã nói:

    … Đất này là đất Hàm Rồng

    Đi qua bom đạn vẫn hồng sắc xuân …

    Huy Cận, nhà thơ lớn, đã nói về mảnh đất địa linh nhân kiệt này:

    … Cánh chim Lạc Việt bay từ thuở ấy,

    Nâng ta lên cánh én ngày nay.

    Đánh quỷ Mỹ với bốn ngàn năm dựng nước

    Đồng, Đông Sơn là xương cốt núi sông này.

    Và cho đến nay, Hàm Rồng còn ghi thêm kỳ tích bắc cầu Hoàng Long cách cầu cầu Hàm Rồng cũ 500 mét về phía hạ lưu sông Mã. Cầu độ thông bốn nhịp vượt qua sông Mã dài 380 mét, có khẩu độ thông thuyền lớn nhất dài 130 mét. Hai trụ dưới dòng sông đạt kỷ lục về chiều sâu, nền móng. Hai cây cầu vươn mình bắc qua dòng sông vốn hùng mạnh làm tăng thêm vẻ đẹp và sự bề thế cho cảnh quan nơi đây.

  5. #15


    Khu di tích Lam Kinh


    Lam Kinh (hay còn gọi là Tây Kinh) thuộc địa bàn xã Xuân Lam huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 52km về phía Tây Bắc.


    Khu di tích lịch sử Lam Kinh rộng khoảng 30 ha, gồm những lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi lần về bái yết tổ tiên.

    Thành điện Lam Kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu (Du Sơn), phía Nam nhìn ra sông Chu, xa xa là núi Chúa, bên trái là rừng Phú Lâm, bên phải là núi Hương. Khu hoàng thành, cung điện và Thái miếu được bố trí xây dựng theo trục nam bắc, trên một khoảng đất đồi gò có hình dáng giống chữ Vương trong chữ Hán. 4 mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, thành phía Bắc xây phình ra thành hình cánh cung với bán kính 164m, thành dầy trên 1m.

    Mặt trước ngoài hoàng thành khoảng 100m còn lại dấu vết của cổng vào rộng trên 6m, hai bên có xây 2 bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc, móng tường thành còn lại dầy 1,08m, qua cổng thành khoảng 10m đến một con sông đào có tên là sông Ngọc. Sông này bắt nguồn từ Tây Hồ, chạy vòng qua trước thành và điện Lam Kinh. Theo sách "Hoàng việt dư địa chí" xưa kia, nước sông trong veo, đáy sông có nhiều sỏi tròn đẹp, trông rất đáng yêu, không ai dám lấy.

    Trên sông có bắc một cây cầu tên là Tiên Loan Kiều hình cánh cung, còn có tên gọi là Cầu Bạch, trên cầu có nhà, thành dáng Thượng gia hạ kiều, qua cầu khoảng 50m thì đến một giếng cổ. Trước kia dưới giếng còn thả sen để giữ cho nước mát trong những ngày hè nóng nực. Bờ giếng phía Bắc có lát bậc đá lên xuống, gọi là bến nước.



    Ngọ môn

    Trước Ngọ môn có hai con nghê đá đứng canh. Nền Ngọ môn rộng 11m dài 14,10m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa rộng 3,6m, cửa hai bên rộng 2,74m và được bố trí ở hàng cột chính giữa. Đặc điểm của bốn cột giữa là rất lớn, đường kính chân tảng đo được 78cm. Ngọ môn 3 gian, bước gian giữa rộng 4,60m, bước gian bên rộng 3,50m.

    Căn cứ vào chiều rộng của nền Ngọ môn và xét về tỷ lệ quy mô các công trình kiến trúc toàn khu cung điện, các nhà nghiên cứu về kiến trúc cổ đã đi đến đoán định, Ngọ môn thành điện Lam Kinh là một công trình kiến trúc hoành tráng.



    Sân Rồng

    Qua Ngọ môn vào đến sân rồng (còn có tên gọi là sân chầu). Sân trải rộng khắp bề ngang chính điện và đến sát thềm hai nhà tả vu và hữu vu với tổng diện tích 3.539,2m2 (rộng 58,5m dài 60,5m).






    Chính điện Lam Kinh

    Qua sân rồng đến khu chính điện, gồm 3 toà điện lớn xây trên nền đất rộng, cao 1,80m so với sân rồng, bề ngang 38m, chiều sâu 46m. Mặt bằng của điện bố trí hình chữ công I (chữ Hán).

    Ngày 21 tháng 2 năm Bính Tý (1456) vua Lê Nhân Tôn đích thân đem các quan về bái yết sơn lăng ở Lam Kinh, nhà vua đã lệnh cho các đại thần đặt tên các điện. Theo đó, điện phía trước gọi là điện Quang Đức, điện dọc ở giữa gọi là điện Sùng Hiếu, điện phía sau gọi là điện Diên Khánh (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Hai điện Quang Đức và Diên Khánh đều 9 gian, gian giữa rộng nhất, hai gian hai đầu hồi chỉ rộng 2m tạo thành hành lang bao quanh cả 3 điện.

    Đây là công trình kiến trúc gỗ có quy mô lớn, hàng cột cái của cả 3 điện có đường kính 62cm. Căn cứ vào chiều rộng của nền điện, khoảng cách của hai hàng cột cái thì cung điện nay có 2 tầng mái. Kiến trúc ba Toà chính điện Lam Kinh có giá trị đặc biệt quan trọng về nghệ thuật kiến trúc thời Lê Sơ.

    Từ sân rồng lên chính điện là thềm rộng lớn, rộng 5m có 9 bậc với 3 lối lên, có chiều rộng không bằng nhau, lối giữa rộng 1,80m, lối bên rộng 1,21m. Hai bên lối giữa trang trí hình rồng tạc tròn, thân uốn khúc, trên thân khắc hoa văn hình ngọn lửa trên sóng xoắn, trên đầu thể hiện một bờm, mép rồng trang trí hình râu xoắn, dưới cằm có râu dài xoắn hình vặn thừng, tay rồng giống bàn tay người nắm gọn râu phần dưới đặt trên một viên ngọc. Gọi là long hí châu (rồng vờn ngọc). Theo sự đánh giá của nhà nghiên cứu người Pháp tên là Louis Bezacien là "Nghệ thuật tạc rồng ở đây rõ ràng nổi hơn hẳn hình rồng ra đời muộn hơn thường chạm trong các đền chùa Việt Nam".




    Khu thái miếu triều Lê Sơ

    Cửa giữa sau điện Diên Khánh có hai lan can đá mỗi lan can tạc một con rồng có thân và đuôi hình con sóc. Từ trên điện đi xuống thềm là khu sân Thái miếu.

    Sau sân gồm 9 toà Thái miếu thờ Thái hoàng Thái phi, mỗi nền Thái miếu có kích thước gần bằng nhau, dài 16m, với diện tích 200m2, tổng diện tích của 9 nền thái miếu là 1.800m2. Gạch lát nền là gạch vuông lát chéo, giữa các Thái miếu có một lối đi lát gạch rộng khoảng 4m. Lối đi này có thêm tác dụng thoát nước. Nền Thái miếu cao so với sân 90cm.

    Trước mỗi Thái miếu đều có một lối lên 5 bậc, hai bên lan can tạc hai rồng uốn khúc bằng cả một phiến đá dày nguyên khối, rồng ở đây nhỏ hơn rồng ở thềm trước chính điện nhưng hình dáng và phong cách giống nhau.

    Sau khu Thái miếu khoảng 50m là tường thành phía Bắc, xây theo hình vòng cung, có đường kính 165m, ôm bao bọc toàn khu cung điện và Thái miếu mặt Bắc.

    Ngoài các công trình quan trọng như chính điện Thái miếu ra, trong khu hoàng thành còn nhiều công trình khác.

    Hai bên sân rồng có hai nhà tả vu và hữu vu chạy dài suốt cả chiều sâu sân rồng.

    Phía Tây khu chính điện còn có hai điện thờ lớn, mỗi điện 5 gian, đó là Chiêu Hiếu Điện còn gọi là Lam Kinh Tây giáp thất điện, thờ Tuyên Tổ Hoàng đế Lê Khoáng bố đẻ của Vua Thái Tổ và thờ Chiêu Hiếu đại vương Lê Thạch con của Chiêu Hiếu đại vương Lê Học. Điện Hoằng Hựu thờ Hoằng Hựu đại vương Lê Trừ, anh thứ hai của Thái Tổ.

    Phía Đông khu chính điện là khu cư xá của các quan và quân lính trông coi khu kinh thành. Trong khu vực phía Đông còn một khu bếp núc. Theo kết quả khảo sát phát hiện được nhiều đồ gốm sứ ở khu vực này.






    Lăng mộ các vua và hoàng hậu ở lam kinh

    Trong khu Sơn Lăng của triều Lê Sơ ở Lam Kinh gồm có 8 lăng của các Vua và Hoàng Hậu, trong đó lăng của Lê Thái Tổ mai táng ở điểm huyệt quan trọng và thần diệu nhất. Lăng của các vua kế nghiệp và Hoàng Hậu mai táng ở hai phía Đông và Tây.



    Vĩnh Lăng - Lăng Lê Thái Tổ

    Ngày 22 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 6, tức năm Quý Sửu, Thái tổ Cao Hoàng đế băng hà. Cùng năm ấy ngày 23 tháng 10 táng ở Vĩnh Lăng, Lam Sơn.

    Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng ở chân núi Dầu phía Nam, cách thành Bắc điện Lam Kinh 50m, nằm trên tuyến trục Bắc - Nam giữa núi Dầu và núi Chúa, tạo thành thế hậu chẩm Bắc Sơn, tiền án Nam Sơn. Bên trái có núi Phú Lâm và núi Hổ; bên phải có núi Hướng và núi Hàm Rồng tạo thành hai cánh tay ngai với thế long chầu hổ phục; phía chính diện của Vĩnh Lăng, cách trên 1.000m là dòng sông Chu uốn cong hình vành khuyên, ôm lấy mặt tiền Vĩnh Lăng, chiều dòng chảy từ phải sang trái tạo thành thế tụ tuỷ. Theo cách nhìn tinh tế của nhiều người am hiểu thuyết phong thuỷ xưa và nay thì Vĩnh Lăng được chọn đặt ở một thế đất đẹp, có vượng khí tốt tươi, núi sông kỳ tú, là điểm huyệt quan trọng và thần diệu nhất trong khu sơn lăng Lam Sơn.

    Bố cục và phong cách mai táng của Vĩnh Lăng đơn giản nhưng tôn nghiêm, tự nhiên mà trang nhã. Lăng đắp đất hình lập phương, xung quanh trước kia xây chèn bằng loại gạch thường, bị sụt lở do sự xâm thực phá huỷ của thảo mộc, nay xây thêm bằng đá đục ở bên ngoài, có cạnh 4,4 m cao 1m.

    Trước lăng có hai hàng tượng người và tượng các con giống tạc bằng đá, dựng ở đây để trấn trạch, nghĩa là làm cho khu lăng luôn luôn được yên lành, không bị tà ma quấy nhiễu và cũng là để tôn lên quang cảnh tôn nghiêm kính cẩn của lăng tẩm vua chúa.

    Đứng đầu hai hàng tượng, ở vị trí gần lăng là hai pho tượng quan hầu, bên trái là quan văn, bên phải là quan võ. Đây là cách sắp đặt theo phép bố trí quan chức thời vua Lê Thái Tổ, đặt hai chức quan đại thần đứng hàng đầu triều gồm quan Thị Trung bộc xạ trông coi việc then chốt về chính trị và quan Thái Uý nắm giữ quyền tối cao trong quân đội.

    Kế tiếp hàng tượng quan hầu là tượng bốn đôi con giống đối nhau theo thứ tự hai sư tử, hai ngựa, hai tê giác, hai hổ. Trước lăng 70cm có một hương án bằng đá để đặt bát hương và lễ vật. Giữa hai hàng tượng chầu vào là một lối đi rộng 20,35 m gọi là thần đạo.

    Đặc trưng nghệ thuật ở các tượng người và con giống ở đây khác biệt so với những tượng trong các lăng khác ở Lam Sơn và nhiều nơi khác.

    Niên đại của các tượng này đã được xác minh là chế tác từ năm mai táng vua Lê Thái Tổ (1433). Tượng có thân hình nhỏ bé, phong cách dân gian, ngựa không thắng yên, tê giác không bành, hổ ngồi hiền từ, sư tử cách điệu như hình lợn rừng.

    Nhìn toàn cảnh lăng Lê Thái Tổ thật là giản dị, gần gũi mà tôn nghiêm, trang trọng.

  6. #16
    Do DD chỉ cho gửi ít nên phải gửi thêm lần nửa bài Khu Di Tích Lam Kinh

    Bia Vĩnh Lăng
    Vĩnh Lăng (Lăng Lê Thái Tổ) bố trí trong một khoảng không gian rộng lớn. Nền dựng bia xây trên đỉnh một gò đất rộng, cao thoai thoải, mặt tiền của bia nhìn về hướng nam, cùng hướng với lăng. Bia làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2,79 m, rộng 1,94 m, dầy 0,27 m, đặt trên lưng một con rùa cỡ lớn cũng làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối, có chiều dài 3,46 m; rộng 1,94 m; cao 0,9 m. Trên thân rùa còn lưu lại nhiều dấu vết rõ nét vỏ áo các loài nhuyễn thể sống trong nước biển như trai, sò, ốc…

    Hoa văn trang trí trên bia và niên đại được xác định cụ thể vào năm Thuận Thiên thứ sáu tức là năm Quý Sửu (1433). Đây là một cứ liệu quý giá để nghiên cứu về nghệ thuật trang trí Việt Nam thời Lê Sơ. Trán bia trang trí một hình vuông, trong hình vuông trang trí một hình tròn biểu trưng cho trời đất. Giữa hình vuông và hình tròn khắc áng vân mây cách điệu tinh tế, chính giữa khắc một đầu rồng nhìn thẳng, thân rồng uốn khúc uyển chuyển quanh hình mặt trời, biểu trưng là Thiên tử do sự giao hoà của trời đất sinh ra. ở cánh cung hai bên của hình vuông và hình tròn khắc hai hình rồng vươn mình đối nhau chầu vào, cùng một phong cách. Trên nền, trang trí loáng thoáng hình áng mây; đường diềm hai bên của bia tính từ đỉnh xuống đến đáy bia, mỗi bên trang trí 9 hoa văn hình nửa lá đề, trong mỗi nửa lá đề có khắc hình một con rồng uốn mình theo lá, đầu vươn lên trên nối tiếp nhau. Khoảng không nền nửa lá đề chạm hình hoa cúc dây với nghệ thuật tinh sảo. Phong cách chạm khắc hình lá đề biểu trưng cho phong cách nghệ thuật trang trí trong các ngôi chùa thờ Phật. Nội dung văn bia do Vinh Lộc đại phu nhập nội hành khiển tri tam quán sự Nguyễn Trãi phụng soạn.

    Bia Vĩnh lăng chính là một công trình văn hoá đặc sắc của chúng ta.






    Hựu lăng- lăng vua Lê Thái Tông

    Vua Lê Thái Tông huý là Nguyên Long là bậc vua giỏi, ở ngôi 9 năm (1434 - 1442), đi tuần thú ở miền đông rồi băng hà, mai táng ở Hựu Lăng.

    Hựu Lăng ở bên tả Vĩnh Lăng cách Vĩnh Lăng trên 800m và thuộc một điểm cao của rừng Phú Lâm.

    Lăng Khôn Nguyên Chí Đức - Lăng Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao

    Lăng Thái Hậu được xây ở một khu đất thấp phía Đông, cách Vĩnh Lăng 700m, phía Nam Hựu Lăng 100m, gọi là Xà Đàm. Điều khác biệt với lăng các vua là tượng quan hầu đặt ở hai bên tả hữu gần lăng là tượng nữ quan trông hiền từ mà nghiêm trang. Các tượng con giống khác cũng tương tự như ở các lăng khác, chỉ có điểm khác biệt là các con giống này đều thân mập và bụng to, điêu khắc trong trạng thái phóng khoáng sinh động.

    Bia lăng Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao cách lăng của Bà khoảng 150m. Bia làm bằng đá nguyên khối, cao 2,76m, rộng 1,90m, dày 0,28m đặt trên lưng một con rùa lớn, tạc bằng một khối đá dài 2,65m, rộng 1,84m, cao 0,69m. Bia hai mặt đều khắc chữ do các ông Nguyễn Bảo, Nguyễn Xung Xác, Bùi Sĩ Nho là quan của Hàn Lâm Viện vâng mệnh soạn.

    Hoa văn trang trí trên bia và niên hiệu đã được xác minh, bia dựng năm Mậu Ngọ (1498). Đây là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc có giá trị nhiều mặt cuối thế kỷ XV.



    Chiêu Lăng - Lăng vua Lê Thánh Tông

    Chiêu Lăng nằm ở bên tả Vĩnh Lăng lệch về phía Đông nam, cách Vĩnh Lăng 700m. Chiêu Lăng xây theo hướng nam, trên một khoảng đất rộng thuộc địa phận làng Phú Lâm, xã Xuân Lam ngày nay.

    Nghệ thuật điêu khắc tượng và con giống ở lăng này là nghệ thuật cung đình, các con giống và quan hầu đều có hoa văn rãnh sâu và mềm dẻo. Các con giống có hình dáng béo mập, bụng to. Một điều đáng quý là tượng và con giống ở Chiêu lăng còn lại tương đối đầy đủ, đây là cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc đá cuối thế kỷ XV.

    Bia Chiêu Lăng dựng trên một khoảng đất bằng, cách Chiêu Lăng 200m về phía Đông Nam. Bia là một tấm đá nguyên khối dựng trên lưng một con rùa đá lớn. Bia có kích thước cao 2,76m, rộng 1,89m, dày 28cm, rùa thân dài 2,65m, rộng 1,84m, cao 69cm, trang trí hoa văn đơn giản.

    Bia hai mặt đều khắc chữ do các ông Thân Nhân Trung; Đàm Văn Lễ; Nguyễn Đức Tuyên; Tô Ngại; Phạm Bảo là quan của Hàn Lâm Viện vâng mệnh soạn và viết chữ.

    Chiêu Lăng là nơi an nghỉ của vua Lê Thánh Tông, một ông vua văn võ toàn tài đã có công lao to lớn trong việc xây dựng đất nước, đưa đất nước phát triển đến đỉnh cao của thời đại xã hội phong kiến Việt Nam. Chiêu Lăng hiện đã được tôn tạo xứng tầm, thể hiện sự tôn vinh của dân tộc.



    Dụ Lăng - Lăng vua Lê Hiến Tông

    Vua Lê Hiến Tông được mai táng ở Dụ Lăng, cách Vĩnh Lăng gần 300m, thường gọi là lăng Bảo Lạc. Dụ Lăng có thế đất rộng rãi, thoáng mát, sơn thuỷ hữu tình. Nghệ thuật tạc tượng tròn ở Dụ Lăng hoàn toàn là nghệ thuật cung đình, các con giống đều có yên cương, mũ quan văn - quan võ đều có đai mũ che gáy, cổ.

    Bia Dụ Lăng dựng trên điểm cao của gò núi phía Tây Nam Dụ Lăng, cách Dụ Lăng 80m. Bia là một tấm đá nguyên khối dựng trên lưng một con rùa đá lớn, có kích thước rộng 1,90m, cao 2,78m, dày 27cm. Rùa dài 2,64m, rộng 1,83m, cao 67cm. Nội dung văn bia do các ông Nguyễn Nhân Thiếp; Phạm Thịnh; Thu Thiện Thiếu Doãn; Trình Chí Sâm; Bùi Sĩ Nho; Vũ Văn Thao; Phạm Bảo vâng mệnh soạn.



    Kính Lăng - Lăng Vua Lê Túc Tông

    Vua Lê Túc Tông ở ngôi chưa được 1 năm không may mất sớm, hưởng thọ 17 tuổi, mai táng ở Kính Lăng - Lam Sơn năm 1505.

    Kính Lăng được xây dựng trên đỉnh núi Hổ, cách Vĩnh Lăng 4km về phía Đông Bắc, nay thuộc nông trường Sông Âm thuộc địa phận xã Kiên Thọ - huyện Ngọc Lặc. Lăng xây theo hướng Nam chếch Đông với 150 tượng quan hầu và các con giống sắp đặt như ở Dụ Lăng.

    Bia Kính Lăng dựng trên một mảnh đất bằng cách Kính Lăng 300m về phía Đông nam. Bia làm bằng đá nguyên khối, rộng 1,90m, cao 2,64m, dày 30cm được đặt trên một con rùa bằng đá dài 3,35m, rộng 2,05m, cao 43cm.

    Nội dung văn bia do các ông đàm Văn Lễ, Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Trình Chí Sâm vâng mệnh vua Lê Uy Mục soạn.

    Bia dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505).



    Khu đền thờ Lê Lợi

    Khu đền thờ vua Lê Lợi thuộc địa bàn xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách khu di tích Lam Kinh 150m về phía Nam. Đền do một số nhà hảo tâm đứng ra quyên góp vào những năm đầu của thế kỷ 20 để làm nơi thờ vua Lê Thái Tổ (Trong khi khu di tích Lam Kinh bị tàn phá chưa được trùng tu). Hiện khu đền thờ này đã được sát nhập vào quản lý cùng với khu di tích Lam Kinh.



    Khu đền thờ Lê Lai (ĐềnTép)

    Thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, cách khu di tích Lam Kinh 6km về phía Tây Bắc, thờ Trung Túc Vương Lê Lai- một vị Khai quốc Công thần của triều Lê Sơ. Chuyện kể rằng, nghĩa quân Lam Sơn buổi đầu tụ nghĩa lực lượng còn rất non yếu. Trong một lần bị quân giặc vây khốn, Lê Lai đã cải trang thành Lê Lợi và anh dũng hy sinh. Quân giặc tưởng đã tiêu diệt được thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nên đã lui quân. Nhờ đó nghĩa quân được bảo toàn lực lượng tạo tiền đề cho chiến thắng sau này. Tấm gương hy sinh anh dũng của Lê Lai đã được nhân dân ghi nhận, lập đền thờ tại quê hương ông.



    Đền thờ Bố Vệ

    Vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long sai dỡ điện Lam Kinh, rồi từ Lam Kinh lại chuyển về làng Bố Vệ, nay thuộc phường Bố Vệ, thành phố Thanh Hoá để thờ.

    Nguyên đền Bố Vệ xưa thuộc thôn Kiều Đại, xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, là sinh quán của bà hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, vợ vua Lê Thái Tông. Sinh thời bà dựng điện Chiêu Hoa ở đây, để lấy chỗ nghỉ ngơi khi về thăm quê. Khi bà mất, năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho sửa điện này thành điện Hoàng Đức để thờ bà. Năm 1805, vua Gia Long cho dời đền thờ các vua Lê ở Lam Kinh về điện Hoàng Đức, tập trung 28 bài vị của các vua Lê và hoàng hậu tại đây và người ta quen gọi là đền Nhà Lê, hay đền Bố Vệ.

    Đền có kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Buổi đầu tất cả các pho tượng, bài vị, đồ minh khí thờ các vua Lê ở Thăng Long đều tập trung tại đây, nhưng nay phần lớn đã không còn. Chỉ còn lại tượng Lê Lợi bằng đồng, tư thế ngồi như người thật, đặt ở chính tẩm, hai bên tả hữu có tượng của Nguyễn Trãi và Lê Lai. Những pho tượng này, do một nhà tư sản cung tiến năm 1935.

    Hàng năm, cứ đến ngày 21, 22 tháng tám âm lịch, nhân dân khắp nơi nô nức về Lam Kinh và cả đền Bố Vệ, để dự tưởng niệm công đức của hai anh hùng cứu nước Lê Lợi và đại công thần Lê Lai và các vị vua Lê đã có công khôi phục giang sơn, đất nước.

  7. #17
    1 Thoáng Ẩm Thực!

    Nem chua
    Quả nem chỉ to bằng chiếc chén pha trà, gói bằng lá chuối tươi, lạt giang trắng buộc quanh chữ thập 6 mặt trông nho nhỏ, khéo khéo, trăm quả như một mà làm say lòng du khách.

    “Bạn đến chơi nhà ta với ta

    Có chai rượu đậu bóc nem ra …”

    Làm nem là một nghề độc đáo, không khó nhưng phải có những bí quyết nhất định. Pha chế là khâu quan trọng, thứ gì làm trước, thứ gì làm sau, ngào trộn như thế nào…và khâu vệ sinh cũng như kỹ thuật gói nem cũng rất quan trọng. Nguyên liệu chủ yếu để làm nem bao gồm thịt nạc xay nhuyễn; Bì lợn luộc chín, cạo thật sạch, lạng mỏng bỏ vào máy cán thành sợi, ngắn chừng 3cm. Thính là gạo tẻ rang vàng, xay nhỏ mịn. Gia giảm còn có men, tiêu bắc, muối tinh và bột ngọt vừa đủ.

    Đôi bàn tay xinh xinh thoăn thoắt gói nem, đặt viên nem đã vo sẵn vào lá chuối, cuộn,bẻ góc, quả nem mới hình thành đã vuông vức, cầm lá chuối xé sẵn khoanh chặt, ngoài cũng lấy lá mặt gói chặt, miệng ngậm đầu lạt xoay quanh buộc chặt, nhoáng đã xong quả nem rồi sâu thành chục một, sau 1-2 ngày là ăn được. Khi ăn, Nem bóc ra chắc, màu hồng, không dính lá, có vị hơi chua là nem ngon.

    Mùa nào ăn nem cũng ngon, nhưng thú vị nhất là cuối thu, sang đông và mùa xuân. Ngày Tết có nem để đón xuân, chén rượu nhắm với nem Hạc Thành thì thật là thú vị. Ai đi đâu, về đâu qua TP Thanh Hoá đều mua nem về làm quà, và cùng với bước chân của du khách, quả nem nho nhỏ đã trở thành tình người Thanh hoá với bạn bè muôn phương.
    Bánh gai Tứ Trụ

    Tứ Trụ thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 40 km về phía Tây. Thế kỷ thứ XV, Tứ Trụ nằm trong vùng căn cứ khởi nghĩa Lam Sơn do anh hùng dân tộc Lê Lợi lãnh đạo.



    Bánh gai Tứ Trụ khởi đầu là do người làng Mía trong vùng làm ra để cúng giỗ Lê Lợi, Lê Lai, cúng ông bà Tổ tiên trong Tết Nguyên đán và lễ hội trong năm. Dần dần nghề làm bánh gai được phổ biến ở các làng vùng Tứ Trụ xã Thọ Diên và trở thành đặc sản của xứ Thanh nổi tiếng cả nước.


    Nguyên liệu làm dễ tìm kiếm, nhưng lại hơi cầu kỳ. Gạo nếp cái hoa vàng xay lọc lấy tinh bột, mật mía loại ngon nhất vùng, thịt lợn nạc làm thành ruốc bông, đậu xanh đãi vỏ, đồ chín giã nhỏ, dừa già nạo thành sợi trắng như sợi cước, vừng rang vàng thơm, lá gai (cây gai mọc trên đồi, củ gai thường làm thuốc an thai) tước gân, luộc lên giã nhỏ lấy tinh bột, lá chuối khô để gói bánh.



    Cách làm bánh: Đem tinh bột nếp trộn với bột lá gai và mật mía rồi cho vào cối đá giã kỹ. Càng giã kỹ càng dẻo, bánh càng dai, càng ngon. Công đoạn này quan trọng nhất, vất vả nhất gọi là luyện bột.



    Bột luyện xong nặn thành bánh. Đậu xanh trộn với mật mía, với ruốc thịt cấy vào làm nhân. Bánh màu đen, ngoài vỏ cấy dừa sợi và vừng đã rang vàng. Sau đó dùng lá chuối khô, gói bánh (khoảng 10 lớp lá) xếp 5 cái bánh xếp thành một cuộn tròn buộc lại bằng lạt giang nhuộm phẩm đỏ cho đẹp. Đặt bánh vào chõ, đồ cho đến lúc bánh chín. Bánh gai Tứ Trụ có hương vị ngon mà các loại bánh ngọt khác không có được./.

  8. #18
    Rượu nếp cẩm

    Đến các bản (làng) của người Mường - Thanh Hoá, du khách sẽ được dự những buổi sinh hoạt 'văn hoá rượu cần'. Ngoài ra du khách còn được thưởng thức một thức uống độc đáo khác nữa của người Mường, đó là 'Rượu nếp cẩm' (thứ rượu ủ, không chưng cất).


    Thổ ngơi của xứ Mường đã ban tặng cho người dân nơi đây một loại lương thực hiếm có: gạo nếp cẩm. Cái màu đỏ tím từ vỏ trấu thấm vào đến tận ruột gạo, tạo nên một hương vị đặc biệt, khác với nhiều loại gạo nếp thường. Người dân ở đây thường dùng loại gạo nếp cẩm để làm rượu.

    Cứ đến tháng 10 (âm lịch) lúa nếp cẩm được bà con gặt từ trên nương (ruộng) đem về đập phơi khô cất gác nơi khô ráo. Để chuẩn bị mẻ rượu dùng vào dịp Tết, hội xuân, dịp vui, người ta dùng cối xay tre (hoặc máy bóc vỏ liên hoàn) xát bật vỏ trấu không để xây sát hạt gạo, sàng sảy sạch sẽ đem ngâm nước (chừng 10 - 12 giờ).


    Người xưa ủ rượu cẩm rất công phu, quan trọng hàng đầu là việc chọn men. Muốn làm men rượu phải có bí quyết gia truyền. Đặc biệt những người biết làm men rượu thường phải vào tận rừng sâu, kiếm sa nhãn và thiên niên kiện là 2 vị chính dùng để làm men, tất nhiên còn phải kèm theo một số vị khác nữa, từ rễ, từ củ, từ lá của mấy loại cây nhất định, để đảm bảo cho rượu nếp cẩm có hương vị riêng.

    Gạo nếp cẩm sau khi được đồ chín, vãi ra nong tre hoặc sàng quạt nguội, cho men lá cây vào trộn đều ủ đúng 3 ngày. Gạo lên men thành cơm rượu thơm ngọt, cho vào chum sành có thể đổ thêm một (vài) lít rượu nếp thường sẵn có, bịt kín chum bằng lá chuối khô, hoặc cũng có thể bằng nhiều lượt vải ni lông. Chum rượu được hạ thổ tại chỗ giọt gianh của nhà sàn, để thường xuyên được thấm giọt mưa, giọt sương từ trên trời rơi xuống. Khi hạ thổ chum rượu người Mường thường lầm rầm cầu khấn với nội dung 'xin thổ thần thổ địa, cai quản giúp cho bình rượu thơm ngon tinh khiết đem lại sức khoẻ cho người ốm yếu, sự trẻ trung cho người già cả, lòng chung thuỷ cho đôi trẻ'.





    Sau 3 tháng 10 ngày, bình rượu thu hút đủ độ âm - dương là rượu có thể đem dùng. Người ta đào rượu lên, dùng khăn sạch tách lọc phần nước và bã. Rượu nếp cẩm vừa sánh vừa tím óng lên như mật, được hứng vào sừng trâu, hoặc vào ấm sành, tuỳ theo độ tuổi và thể trạng mà nhâm nhi, thấy đó quả là một liều thuốc tăng lực và phấn chấn tinh thần. Phụ nữ mới sinh có thể dùng lòng đổ trứng gà đánh tan nhuyễn với mật ong hoà với rượu nếp cẩm để phục hồi sức khoẻ.

    Thứ rượu độc đáo này phù hợp với mọi lứa tuổi và giới tính. Chỉ một lần 'nếm' thử chắc chắn du khách sẽ thật khó quên./.
    Giò Lụa

    Không riêng gì người Việt Nam mà mọi người trên cả thế giới đều biết đến các món ăn được chế biến từ thịt lợn như: thịt quay, giả cầy, thịt luộc, thịt đông, kho tàu… đủ món. Giò lụa là món ăn độc đáo mà chỉ có người nước ta làm ra mà thôi.

    Cỗ bàn từ thành thị đến thôn quê, trên mâm thế nào cũng phải có đĩa giò lụa, khoanh giò khéo tay cắt tỉa như đĩa hoa.

    Nước ta sẵn thịt lợn, lá chuối, mắm muối, lạt giang, chẳng phải nhập ngoại. Phụ nữ khéo tay, hay làm sẽ có cân giò lụa ngon.

    Cách làm:

    1kg thịt nõn mông, thịt vai phải tươi sờ còn ấm tay, thịt bỏ tủ lạnh làm mất công, phí của.

    Thịt thái bỏ vào máy xay nhuyễn. Nước mắm ngon hoà với mỳ chính, thêm một chút bột tẻ khuấy đều đổ vào máy nghiền cắm điện cho xay tiếp chừng vài ba phút thấy dẻo là được.

    Lá chuối (trừ lá chuối tiêu) rửa sạch lau khô, xếp 3 - 4 lớp ngang, dọc, lá trong non hơn lá ngoài.

    Thịt nghiền xay xong bỏ vào túi nylon để dễ gói. Gói tròn hình trụ dài chừng 25cm, đường kính độ 10cm. Lạt buộc dẻo, mỏng.

    Luộc giò là khâu chính. Chín quá giò dai, vớt sớm trong không chín. Giò bỏ vào nồi phải dựng đứng, lá chuối chèn chặt. Nước luộc giò phải trong, sạch, không đổ ngập giò. Trước đây người làm giò thắp một que hương đen dài chừng 40cm, hương cháy hết là giò vừa độ chính, nay có đồng hồ từ lúc nước sôi đến lúc vớt chừng 30 phút. Vớt xong phải treo nơi thoáng để giò ráo nước. Giò treo toả mùi thơm đậm, chưa ăn mà đã cảm thấy ngon.

    Đi chợ mua giò thấy khoanh giò mịn là giò pha nhiều bột, ăn bở, nếu giòn bỏ hàn the vào, giò ngon mặt lát giò thỉnh thoảng có vài ba lỗ nho nhỏ.

    Một số nhà làm hàng sau khi nghiền máy bỏ vào cối giã tiếp, 2 tay cầm chày giã liên hồi kỳ trận, chày hơi nghiêng vào lồng, thịt nhuyễn dẻo tra nước mắm thật ngon đã hoà một chút bột tẻ, thục cho đều, lấy mo cau thém lại, múc ra gói giò. Nhiều nhà đắt hàng, giò làm đến đâu bán hết đến đó (không bỏ diêm tiêu, hàn the, thuốc chống thối).

    Để tiện cho khách nhậu tại quán, nhà hàng, giò làm loại nhỏ như kiểu bánh răng bừa, bánh bột lọc loại 1.000 đồng, 2000 đồng ăn đến đâu mua đến đó, không phải cân kéo lôi thôi, đó là giò lụa cải tiến, hợp túi tiền.

    Nghề làm giò lụa ngày càng nhiều. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ nơi nào cũng có. Thưởng thức giò lụa - món ăn dân tộc đậm hương vị cổ truyền, trẻ già, trai gái ai cũng thích.
    Bánh Răng Bừa

    Những ngày Tết nguyên đán, Tết Đoan ngọ, rằm tháng Bảy, các lễ tục, ngày giỗ … trong nhà mỗi gia đình ở làng quê Thanh Hoá không thể thiếu bánh răng bừa, hay còn gọi là bánh lá. Bên mâm cỗ đầy nhiều thức ăn ngon, có thêm đĩa bánh răng bừa chưa bóc lá, bốc khói nóng sốt, dậy mùi thơm của hành mỡ. Và sau khi cúng xong, hạ cỗ xuống ăn, vừa ăn vừa bóc lá, thật không gì thú vị hơn.

    Nguyên vật liệu của bánh răng bừa không có gì đặc biệt. Gạo tẻ xay thành bột, thường là xay cả nước, nếu bột khô thì phải pha nước vừa đủ, đặt lên bếp nao, tức là đảo đũa liên tục sao cho không bị vón cục, không lỏi, không quá chín. Đến khi bột đặc sền sệt thì bắc ra. Lá gói bánh thường là lá dong hoặc lá chuối tươi đã được hơ lửa cho khỏi rách. Nhân bánh là nhân hành, thịt băm, cũng có khi thêm ít lát cùi dừa. Nếu là bánh lễ chay hoặc đi lễ chùa thì nhân làm bằng lạc. Bánh gói nhỏ bằng ngón tay trỏ, nhỏ như răng bừa. Sau đó đem đồ hoặc luộc. Loại bánh răng bừa có kỹ thuật cao là loại bánh có bột nhỏ, mịn, thơm, ăn dẻo và ngon. Ngày Tết hoặc ngày lễ, các gia đình còn ngầm thi nhau làm bánh răng bừa với tất cả những ngón nghề, những kinh nghiệm và cũng là dịp trổ tài của các bà, các chị trong công việc nội trợ, gia chánh.

  9. #19
    Sầm Sơn, đô thị Du Lịch Văn Minh Thân Thiện
    A- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên, di tích danh thắng

    I. Điều kiện tự nhiên.
    I.1. Vị trí địa lý:
    Thị xã Sầm Sơn là Thị xã đồng bằng ven biển Thanh Hoá, nằm ở toạ độ 1050 52' 30" đến 1050 56' 15" kinh độ Đông; 19 0 47' 10" đến 19 0 43' 11" vĩ độ Bắc.
    Cách Thành phố Thanh Hoá 16km về phía Đông Nam theo đường quốc lộ 47 và tiếp giáp với các đơn vị hành chính sau:
    - Phía Bắc giáp huyện Hoằng Hoá.
    - Phía Nam giáp huyện Quảng Xương.
    - Phía Đông giáp Biển Đông.
    - Phía Tây giáp huyện Quảng Xương.

    I.2. Tổng quan địa hình:
    Thị xã Sầm Sơn có địa hình bằng phẳng, là một vùng đất cát chiều dài theo hướng Bắc Nam; chiều rộng theo hướng Tây Đông, hẹp và dốc về hai phía, phía Đông ra biển, phía Tây ra sông Đơ..
    Phía Nam có dãy núi Trường Lệ đỉnh cao nhất 81,7 mét. Địa hình vùng cát và ruộng cao độ cao nhất +3,1 m, cao độ thấp nhất + 0,2 m.

    I.3. Khí hậu thời tiết:
    Theo tài kiệu của đài khí tượng thuỷ văn khu vực Bắc miền Trung - trên địa bàn Thanh Hoá: Sầm Sơn nằm trong vùng khí hậu đồng bằng ven biển có các đặc trưng sau:

    a. Nhiệt độ: Nền nhiệt độ cao, mùa Đông không lạnh lắm:
    - Tổng nhiệt độ năm 8.5000 - 8 6000C, biên độ năm 110 - 130C, biên độ ngày 50 - 70C.
    Nhiệt độ trung bình tháng 1: 16,50 - 170C, thấp nhất tuyệt đối chưa dưới 50C.
    Nhiệt độ trung bình tháng 7: 28,50 - 29,50C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối ≤ 410C.
    Có 4 tháng nhiệt độ trung bình ≤ 200C (XII - III) và có 5 tháng nhiệt độ trung bình ≥ 250C (V - IX).
    - Sự rét lạnh trong mùa đông không liên tục mà thành từng đợt, sự giao động nhiệt độ trong mùa đông khá lớn.
    - Chế độ nhiệt trong mùa hè ổn định hơn, chênh lệch giữa các tháng không lớn.

    b. Mưa: Lượng mưa trung bình 1.500 - 1.900 mm kéo dài từ tháng V đến tháng X, chiếm 86 - 90% tổng lượng mưa cả năm, nhưng mưa tập trung từ tháng VI đến tháng IX, lượng mưa phân bố không đồng đều. Tháng ít mưa nhất tháng I và tháng II (bình quân mỗi tháng 18 - 22 mm). Tháng mưa nhiều nhất là tháng VIII và tháng IX (bình quân mỗi tháng 800 - 900 mm).
    Có lúc mưa tập trung thường xảy ra úng lụt cục bộ, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hởng đến đời sống nhân dân. Lượng bốc hơi trung bình 968 mm

    c. Độ ẩm không khí: Trung bình 85 - 86%, các tháng có độ ẩm không khí cao nhất là tháng II, III, xấp xỉ 90% rất dễ dàng cho sâu bệnh và các mầm mống sâu bệnh phát triển, ảnh hưởng đến cây trồng và vật nuôi.

    d. Gió: Chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính: Gió mùa Đông Bắc vào mùa đông và gió Đông Nam vào mùa hè, tốc độ gió trung bình năm 1,5 - 1,8 m/s. và khi gió mùa Đông Bắc là khoảng 25 m/s. Ngoài hai hướng gió chính trên, về mùa hè thỉnh thoảng còn xuất hiện các đợt gió Tây Nam khô nóng .

    đ. Bão: Gió bão ở Sầm Sơn khá mạnh cao nhất 30 - 40 m/s, kéo dài khoảng 10 - 15 giờ, bão thường xuất hiện vào tháng 6 đến tháng 9. Trung bình khoảng 3, 47 lần/ năm .

    1.4. Địa chất thuỷ văn:
    - Sầm Sơn địa chất thuộc loại trầm tích biển, chủ yếu là cát pha, cường độ chịu tải trung bình 1 kg/ cm2 .
    - Mực nước ngầm cách mặt đất 1,4 m, Lưu lượng dòng chảy : 4,55 l/s.
    - Sầm Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của chế độ thuỷ văn biển, là chế độ triều không thuần nhất, chu kỳ triều trên dưới 24 giờ, ngoài ra cũng có bán nhật triều nhưng rất ít, thời gian triều lên ngắn (khoảng 9 - 10 giờ) thời gian triều xuống (khoảng 14 - 15 giờ), độ mặn ở cửa sông Mã không vượt quá 30 - 33%. Mùa mưa bão nước tràn lên bãi cát ở cao trình + 2,5 m .

    II- Các nguồn tài nguyên.

    II.1. Tài nguyên Đất:
    Tổng diện tích đất tự nhiên toàn thị xã: 1.788,86 ha
    Số liệu điều tra đất năm 2000 theo phương pháp FAO UNESSCO trên diện tích 1462,73 ha, Sầm Sơn có các loại đất chính sau:

    a. Đất cát biển (Arenosols) Ký hiệu- AR.Diện tích: 993,61 ha
    Đây là loại đất chính, chủ yếu phát triển các công trình phúc lợi, xây dựng, đất ở, trồng cây lâm nghiệp ven biển và các cây hàng năm khác.

    b. Đất đỏ có tầng mỏng (Leptoso) Ký hiệu - LP.Diện tích: 145,0 ha
    Phân bố tại khu vực núi Trường Lệ, chủ yếu là trồng cây lâm nghiệp.

    c. Đất có Glây (Gleysols) Ký hiệu - GL. Diện tích: 324,12 ha
    Loại đất này chủ yếu trồng lúa nước.
    Diện tích còn lại không điều tra để phân loại : 326,10 ha là diện tích ao, hồ, mặt nước chuyên dùng.

    II.2. Tài nguyên Rừng:
    Hiện tại Thị xã Sầm Sơn có diện tích rừng trồng là 201,57 ha. Phân bố chủ yếu ở núi Trường Lệ và ven biển. Diện tích rừng này tuy không trực tiếp mang lại hiệu quả kinh tế, nhưng nó đem lại hiệu quả về môi trường sinh thái rất lớn, ngăn gió bão, ngăn mặn xâm thực vào đất liền, đồng thời tạo cảnh quan thiên nhiên xanh mát phục vụ du lịch, nghỉ mát .

    II.3. Tài nguyên Biển:
    Biển Sầm Sơn có chiều dài gần 9 km, trong đó có 5 km làm bãi tắm, hiện đã khai thác trên 3 km. Bãi cát mịn, thoải và sạch, nước biển trong, sóng vừa phải rất thích hợp cho du lịch tắm biển. Sầm Sơn có đặc sản biển phong phú và chất lượng hơn nhiều địa phương khác. Khách có thể thưởng thức đủ loại mực ống, tôm he, cua gạch, các giống cá ngon như chim, thu, nụ, đé ... Hải sản ở nơi đây có đặc điểm là thịt chắc, dai, vị ngọt lại rất đậm đà.

    II.4. Tài nguyên khoáng sản:
    Núi Trường Lệ là núi đá granit có trữ lượng hàng triệu m3 làm vật liệu xây dựng chất lượng tốt, trong các vỉa đá núi có mạch Pecmatit chứa Fenspat là nguyên liệu làm men sành sứ có trữ lượng 17.000 tấn.
    Dải cát ven biển có quặng ti tan với trữ lượng 73.000 tấn, đây là loại nguyên liệu quan trọng sản xuất que hàn. Tuy vậy khoáng sản ở Sầm Sơn luôn luôn ở dạng tiềm năng, không được khai thác mà để phục vụ cho mục đích quan trọng hơn đó là du lịch.

    III- Di tích- danh lam thắng cảnh

    Sầm Sơn có nhiều di tích - danh lam thắng cảnh được phân bố đều ở 5 xã, phường đã được Bộ Văn hoá - Thông tin và Sở Văn hoá - Thông tin Thanh Hoá công nhận gồm:.
    1- Đền Độc Cước: Di tích đã được Bộ VH - TT xếp hạng năm 1962.
    2- Đền Cô Tiên: Di tích đã được Bộ VH - TT xếp hạng năm 1962
    3- Đền Tô Hiến Thành: Di tích đã được Bộ VH - TT xếp hạng năm 1962.
    4- Hòn Trống Mái: Danh thắng đã được Bộ VH - TT xếp hạng năm 1962.
    5- Đền Hoàng Minh Tự: Di tích đã được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 2001.
    6- Chùa Khải Minh: Được Sở VH - TT công nhận năm 1994.
    7- Chùa Lương Trung: Được Sở VH - TT công nhận năm 1999.
    8- Đền Đề Lĩnh: Được Bộ VH - TT xếp hạng di tích Quốc gia năm 1993.
    9- Đền Bà Triều: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 1995 (Thờ vọng).
    10- Đền Cá Lập: Di tích đã được Bộ VH - TT công nhận năm 1999.
    11- Đền Lộc Trung: Di tích đã được Bộ VH - TT xếp hạng năm 1999.
    12- Đền Làng Hới: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 1993.
    13- Đền Bà Triều: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 1993(Đền chính).
    14- Đền Thanh Khê: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 1994.
    15- Đền thờ Phủ Đô Hầu: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 1993.
    16- Đền thờ Ngư Ông: Được Sở VH - TT Thanh Hoá công nhận năm 2004.

    IV- Các Lễ hội

    Các Lễ hội lớn có quy mô toàn thị xã:
    1- Lễ hội cầu phúc được tổ chức vào ngày 16 tháng giêng Âm lịch hàng năm
    2- Lễ hội bánh chưng, bánh dày được tổ chức vào ngày 12 tháng 5 Âm lịch hàng năm.
    3- Lễ hội cầu ngư được tổ chức vào ngày 15 tháng 5 Âm lịch hàng năm.
    Ngoài ra tại các đền cũng diễn ra các lễ hội với quy mô nhỏ: 5/1 Âm lịch tại đền Lộc Trung; 16/1 Âm lịch tại đền Đề Lĩnh; 10/2 Âm lịch tại hai đền Bà Triều; 16/2 Âm lịch tại đền Tô Hiến Thành; 26/2 Âm lịch tại đền Hoàng Minh Tự; 3/3 Âm lịch tại đền Thanh Khê.

    Bãi biển Sầm Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 16km. Bờ biển dài, bằng phẳng, phong cảnh hùng vĩ, đã được người Pháp khai thác từ năm 1906.





    Bãi biển Sầm Sơn là nơi tắm biển rất tốt mà người Pháp đã biết khai thác từ năm 1906 và Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương. Từ những thập kỷ trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn. Sầm Sơn có nhiều cảnh đẹp: hòn Trống Mái, đền Ðộc Cước, núi Cô Tiên...
    Bờ biển Sầm Sơn dài 10km bằng phẳng và nhiều hải sản quý như tôm he, cá thu, mực... Sầm Sơn có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vùng biển bao la với những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách. Bãi biển Sầm Sơn là một trong những bãi biển rộng và đẹp ở phía bắc.

  10. #20
    Vẻ đẹp biển và núi Sầm Sơn!

    Bãi biển Sầm Sơn (thuộc thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá) cách thành phố Thanh Hóa 16 km về phía Đông và cách Hà Nội 170km, là một trong những khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng của Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20. Với bãi biển chạy dài gần 6 km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ, đây là nơi tắm biển rất tốt. Biển Sầm Sơn với bãi cát vàng thoai thoải, nước trong xanh và nồng độ muối vừa phải rất phù hợp với sức khoẻ con người.

    Ngay từ thời Pháp thuộc, làng Núi Sầm Sơn cùng bãi biển dưới chân núi được coi là khu nghỉ mát cho các quan chức người Pháp. Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương, và dần dần trở thành bãi tắm lý tưởng thu hút khách du lịch thập phương. Từ nhiều thập niên trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn.

    Thiên nhiên đã ưu ái cho vùng đất này những bãi biển kỳ thú, nên thơ. Đến với Sầm Sơn du khách sẽ được hoà mình với biển cả mênh mông soi bóng núi Trường Lệ duyên dáng; được nghe bản hoà tấu của biển và núi non với rì rào sóng vỗ bờ, với những hàng dừa xanh lao xao, những rặng phi lao vi vu trong gió, những tiếng sáo diều đánh thức trời xanh…
    Đền Cô Tiên một di tích một danh thắng

    Sau những giây phút bồng bềnh với sóng, du khách có thể thả hồn mình dạo bước trên núi Trường Lệ, nơi có đền thờ Độc Cước. Toàn cảnh đền như một bức tranh sống động, tồn tại từ bao đời, được coi là 'Tối linh từ'.

    Chuyện kể rằng xưa lắm có một bọn quỷ mũi đỏ đến vùng biển này làm hại dân lành. Hồi bấy giờ có một chú bé mồ côi cha vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh như thổi. 'Hạt lúa lớn bằng người ôm, trái cà con nặng một người gánh' mà vẫn không đủ nuôi chú bé. Khi chú bé trở thành người khổng lồ cũng là lúc bọn quỷ dữ hại dân lành hoành hành ghê gớm. Chàng khổng lồ đánh thắng chúng ngoài biển, chúng tràn vào đất liền cướp phá, nếu chàng ở trong đất liền thì chúng lại phá ở ngoài khơi còn nếu chàng ở ngoài khơi thì chúng lại phá ở đất liền. Chàng nghĩ cách lấy búa tự xẻ đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ dân chài. Hôm ấy bọn quỷ lẫn vào bờ nhìn lên thấy chàng khổng lồ vẫn sừng sững đứng đó, ra biển lại cũng thấy chàng hiên ngang trên mảng y như trên đỉnh núi. Từ đó chúng xiêu bạt đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa. Cái tên thần Độc Cước, tức thần 'Một chân' bắt nguồn từ tích này.

    Theo đạo sắc phong còn giữ được, vào năm Cảnh Hưng thứ 14 (1783), thì thần Độc Cước tên là Chu Văn Khoan, có tài đức, giúp các đời vua dẹp yên giặc giã, giữ gìn bờ cõi. Ngài hiệu là Đại pháp sư, có 7 phép màu để trị ma quỷ gian ác… và được vua phong mấy chữ: 'Độc Cước sơn triều'.

    Đền đã qua nhiều lần trùng tu. Năm trùng tu xưa nhất được giữ ở thượng lương gian tiền đường ghi niên hiệu Chính Hoà (1675 - 1705). Còn tiền đường mới hiện tại có niên đại Tân Mão (1891), với dòng chữ: 'Hoàng triều Thành Thái tam tam niên tuế thứ Tân Mão hạ huyệt trọng xuân lưu nhật quang thời tân tạo tiền đường thụ đại cát'. Tạm dịch: 'Đời vua Thành Thái thứ 3, năm Tân Mão, mùa xuân tháng Ba ngày tốt, làm ngôi tiền đường'. Qua hai cuộc kháng chiến, từ 1945 đến 1974, bom đạn liên miên, nhưng đền Độc Cước hầu như vẫn nguyên vẹn, với những chiếc cột bằng gỗ lim, gỗ chò và một số đồ thờ, bia, tượng, có phong cách nghệ thuật Việt Nam thế kỷ XVIII, XIX.



    Đền Tô Hiến Thành
    Đền được xây dựng ở xóm Tài, làng Núi, nay thuộc phường Trường Sơn, thị xã Sầm Sơn, cách Đền Độc Cước 300m. Đền thờ Tô Hiến Thành, một đại thần ở thế kỉ thứ XII, dưới triều nhà Lý. Ông là một viên quan, được lịch sử ca ngợi rất thanh liêm, chính trực. Vào năm 1161, ông được vua Lý Thánh Tôn cử cầm quân vào dẹp loạn ở vùng ven biển Thanh Hoá, nhờ thế mà nhân dân địa phương mới được an cư lạc nghiệp. Vì vậy nhiều nơi ở Thanh Hoá, nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ công đức của ông.

    Trước kia theo kí ức của nhân dân địa phương thì ngôi đền này khá đẹp và có nhiều cây cổ thụ. Nhưng rồi đền đã bị phá, cây cối bị đốn hết, vài năm trở lại đây đền mới được dựng lại. Hiện nay, đền chỉ còn lại bộ kiệu từ xưa, đang được cất giữ trong đền Độc Cước và một cây bàng ở phía trái đền, có tuổi thọ hơn 70 năm

    Hàng năm cứ đến ngày 16/2 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội thắp hương ở
    đền




    Một số thông tin về Đền Độc Cước Lịch Sử
    Qua nhiều thế hệ vị thần được tôn: "Độc Cước Chân Nhân" "Sơn tiên Độc Cước "
    vị thần đã có công lớn giúp các Triều đại đánh đuổi giặc ngoại xâm nên được các nhà vua
    ban nhiều sắc phong " Thượng đẳng Phúc Thần" cho nhân dân bốn mùa cúng tế. Ngôi đền đã trải qua các đời Lý - Trần - Lê - Nguyễn ..... Vẫn giữ được nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ.
    Qua 50 bậc đá đến cổng Tam quan có hai thớt voi chầu. Ngôi đền gồm có 3 cung. Tiền đường, trung đường, hậu cung kiểu chuôi vồ. Trong đền còn có nhiều dấu tích lịch sử quý: Hai tượng phỗng nô lệ hậu cung có tượng "Thờ" Thần Độc Cước: Trung đường là bức tượng "Nghệ thuật" Thần Độc Cước và những bước chạm cổ tinh xảo. Trong tổng thể khu Di tích ở một địa thế đẹp độc đáo tạo sự quan sát sinh động, nhiều chiều cho du khách. Đền có gác nghêng phong (đón gió) phá Bắc, có Phủ Mẫu phía Tây Nam có Miếu Thổ Thần, miếu Sơn Thần, đảm bảo cho dân du cảnh hành lễ.


    Đền Hoàng Minh Tự Lịch Sử Về nhân vật Hoàng Minh Tự, thần họ Hoàng úy là người Bách Việt từ Nam Hoàng Hà (Trung Quốc) đến Việt Nam rồi ở lại một xã thuộc huyện Hậu Lộc Thanh Hóa. Khoảng năm Long Khánh đời nhà Trần(1373 - 1377) có giặc Chiêm thành đến xâm lấn. Vua nhà Trần thân chinh đi đánh giặc, ông đứng giữa đường đón và xin theo đi đánh giặc. Vua bèn sai ông làm đốc vận quân lương. Ông hoàn thành nhiệm vụ tốt và được vua Trần phong trước “Minh Tự”. Vì vậy nhân dân quen gọi ông là “Hoàng Minh Tự”. Khi ông mất triều đình sai dân lập đền thờ ở Thanh Hóa, theo thông kê của sách có (06) nơi thờ là: Xã Uy Hồ thôn đồng Lạc, thôn Xuân Lôi (Nay là xã Xuân Kỳ - Lộc Tân – Hậu Lộc thôn trường Lệ, xã Du Vịnh; Sơn thôn huyên Quảng Xương, đại danh Sơn thôn chính là đền Hoàng Minh Tự mà chúng ta đang thờ phụng đến nay đã hơn 700 năm – Là nơi thờ chính (Làng núi chính là phường Trường Sơn, hiện nay).
    Đền được tu sửa và khánh thành 16/10/2007

    Đền “Hoàng MinhTự” có kiến trúc kiểu chuôi vồ. Có ba thành phần chính là tiền đường, trung đường, hậu cung. Đây là kiểu kiến trúc đền sớm nhất của nước ta trong đền hiên vật cổ của đền không còn nhiều. Chỉ còn một số hiện vật như hương án, long ngai, đại tự (bức đại tự sơn son thiếp vàng ghi chữ hán”Tối linh từ” tức là đền rất thiêng). Có bốn đạo sắc phong,một cỗ kiệu song loan,một bộ áo chầu.Những hiện vật này được bảo quản tốt (Đang lưu giữ và bảo quản tại đền Độc Cước chờ ngày rước về đền Hạ .Căn cứ vào dòng chữ ghi trên thương lương ,tiền đường .Lần trùng tu gần đây nhất là vào năm bảo đại thứ ba 1928 đến nay (đã tròn 80 năm).Toàn bộ kết cấu cột, xà dọc và bộ vì kèo đền làm bằng vật liệu xi măng cốt thép, làm theo kiểu vuông thành chữ nhật. Các bộ phận như kẻ, đấu, dường đố đều có trang trí họa tiết hoa văn hình mây lá. Hai bức tượng Võ quan đắp bằng vôi mật ( Do công ty tư vấn và thiết kế công trình văn hóa Bộ văn hóa – thông tin, kiểm tra và thống kê tháng 10 năm 2002).



    Thần “Hoàng Minh Tự” là vị thần mà các nhà nghiên cứu cho biết Thanh Hóa có 06 nơi thờ. Song phường Trường Sơn chúng ta tự hào có đền Hoàng Minh Tự là đền chính, thần “Hoàng Minh Tự” là biểu tượng hoàn hảo của tinh thần đoàn kết cộng đồng, sự lao động cần cù sáng tạo, chống lại các thế lực xấu xa, vì cuộc sống bình yên của nhân dân .vv… mà hậu sinh chúng ta đời nào cũng phải học tập.
    Thần Hoàng Minh Tự là hình tượng cao đẹp, không mang danh lợi, vì cuộc sống bình yên của nhân dân .vv… mà mỗi chúng ta, ai ai cũng cần học tập noi theo, xin thắp một nén hương, trầm mặc dâng lên đấng thần linh, tổ tiên mà tự nhủ với lòng mình: Hãy rũ bỏ những gì xấu xa, khuất tắt mà làm nhiều việc thiện, làm nhiều việc tốt đẹp góp phần mình xây dựng, điểm tô cho cuộc sống này, cuộc sống hiện tại và tương lai tốt đẹp hơn.
    Hòn Trống Mái


Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast

Similar Threads

  1. Thanh Đa - bóng tối ly cà phê
    By lisaqn in forum Đọc báo cho bạn
    Replies: 1
    Last Post: 08-08-04, 10:10 PM
  2. Bệnh hình thức của thanh niên
    By ChieuSGBuon in forum Tuổi trẻ Việt Nam - Hãy hành động...
    Replies: 1
    Last Post: 19-07-04, 03:59 PM
  3. Hoạt động của diễn đàn thanh niên
    By chitcon289 in forum Đọc báo cho bạn
    Replies: 0
    Last Post: 18-07-04, 06:19 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •