Phần 1

I. ĐẠI CƯƠNG:

Bắt đầu đại dịch AIDS, người nghiện ch1ich ma túy là đối tượng nguy cơ cao của nhiễm HIV. Theo thống kê của cơ quan y tế Hoa Kỳ, vào năm 2001, 25% bệnh nhân AIDS là người nghiện ma túy (29% vào năm 2002), gồm 22% nam và 47% nữ. Tính đến 1/9/2004, người nghiện chích ma túy chiếm khoảng 33% số nhiễm HIV ở bang Massachusetts. Thêm vào đó, người nghiện chích ma túy nhiễm HIV lại có những quan hệ tình dục với nhiều người khác làm cho nguy cơ lây lan trong cộng đồng tăng cao. Tỉ lệ phụ nữ bị nhiễm HIV tăng cao hầu hết là do quan hệ tình dục với đàn ông nghiện chích ma túy nhiễm HIV. Một khi phụ nữ bị nhiễm HIV, không phân biệt nguồn gốc nào cũng có thể lây nhiễm cho con. Các tụ điểm tiêm chích giữ vai trò rất quan trọng trong tiến trình lây nhiễm. Qua khảo sát 22 tụ điểm ở Miami, cho thấy các nơi này có khoảng 50% số phòng dành cho các hoạt động tình dục. Chương trình trao đổi kim tiêm ống tiêm tỏ ra rất hiệu quả, giảm rõ rệt số người nhiễm mới. Tuy nhiên, chương trình này không phải nơi nào cũng công nhận là hợp pháp. Người nghiện chích ma túy thường có nhiều vấn đề tâm lý, xã hội rất phức tạp, vì vậy thầy thuốc chăm sóc điều trị luôn gặp nhiều khó khăn trở ngại: điều trị nhiều bệnh lý liên quan đến nhiều chuyên khoa khác nhau, kể cả việc điều trị cai nghiện, chống tái nghiện.

Tại Pháp, nghiện chích ma túy là nguy cơ đứng hàng thứ hai sau quan hệ tình dục đồng phải, chiếm tỉ lệ khoảng 22,5% số bệnh AIDS. Tuy nhiên, với những tiến bộ trong lãnh vực điều trị, số nhiễm HIV mới qua đường chích ma túy đã giảm đến 77% vào thời gian 1995 – 1999. Sau đó, vào giai đoạn 2000 – 2001, tỉ lệ lây nhiễm HIV qua đường tiêm chích ma túy dao động vào khoảng 15%, so với năm 1995 là 24,9% và tụt xuống thứ ba sau quan hệ tình dục khác phái. Kết quả này được giải thích bằng nhiều lý do khác nhau: hiệu quả của ARV, hiểu biết của bệnh nhân về nhiễm HIV, hệ thống y tế tốt nên bệnh nhân được chăm sóc và điều trị sớm, đúng cách.

Theo thời gian, tình hình nhiễm HIV thay đổi, kiểu cách sử dụng ma túy có nhiều biến hóa, vì vậy chiến lược đối phó với nghiện ma túy cũng phải đa dạng và uyển chuyển theo từng lúc từng nơi, tập trung vào các vấn đề chính sau đây:

- Triển khai các biện pháp giảm nguy cơ nhiễm trùng có liên quan đến con đường sử dụng ma túy.

- Đề xuất các biện pháp điều trị thay thế á phiện.

- Xây dựng các cơ sở y tế theo nhu cầu của bệnh nhân nghiện ma túy, thí dụ như thành lập các đơn vị cai nghiện ngay trong bệnh viện, nhà tù…

- Chuẩn bị các biện pháp điều trị thay thế các thuốc gây nghiện mới như chic-hít-hút cocaine và dẫn xuất, amphetamines, benzodiazepines…

- Cần chú ý đến tỉ lệ ngày một nhiều người nghiện cùng lúc nhiều loại thuốc.

II. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NHIỄM HIV TRÊN NGƯỜI NGHIỆN CHÍCH MA TÚY

Nhìn chung, ở người nghiện chích ma tuý nhiễm HIV, diễn tiến từ nhiễm HIV không triệu chứng sang giai đoạn AIDS cũng tương tự như những nhóm nguy cơ khác. Ở những bệnh nhân này, số lượng tế bào CD4 giảm không khác với nhóm đàn ông đồng phái luyến ái. Qua nhiều nghiên cứu người ta cũng thấy rằng tỉ lệ giảm số lượng tế bào lymphô CD4 không chịu ảnh hưởng bởi số lần sử dụng ma túy và uống rượu. Nhiều nghiên cứu đoàn hệ (cohort studies) cũng không tìm thấy sự khác biệt về diễn tiến từ nhiễm HIV không triệu chứng sang giai đoạn AIDS ở ba nhóm nghiện chích ma túy, đồng phái và khác phải luyến ái. Ở giai đoạn tiền AIDS, người nghiện chích ma túy hình như có nhiều nguy cơ mắc bệnh và tử vong do các bệnh nhiễm trùng. Ở thành phố Mew York, người nghiện chích ma tuú bị nhiễm HIV có tỉ lệ tử vong vì viêm phổi do vi trùng, viêm nội tâm mạc, lao phổi nhiều hơn là người không nhiễm HIV. Một cuộc nghiên cứu khác ở Edinburgh cho thấy người nghiện chích ma túy bị nhiễm HIV tử vong cao ở giai đoạn tiền AIDS vì quá liều thuốc, kế đến là nhiễm trùng huyết và bệnh gan. Bệnh cảnh lâm sang của nhiễm HIV ở người nghiện chích ma túy không có gì đặc biệt lắm. Tỉ lệ tử vong của bệnh nhân kể từ khi chẩn đoán AIDS không khác biệt quan trọng giữa hai nhóm nghiện và không nghiện ma túy. Tiên lượng phụ thuộc vào các biểu hiện của bệnh AIDS nhiều hơn là hành vi nguy cơ.

Tóm lại, trên người nghiện chích ma túy bị nhiễm HIV, một số bệnh cần lưu ý là:

- Tỉ lệ bị nhiễm trùng hô hấp do S.pneumaniae, H.influemzae cao và thường xuất hiện sớm trong tiến trình nhiễm HIV.

- Nguy cơ mắc bệnh lao cao gấp 3 lần so với nhóm đồng phái luyến ái.

- Tỉ lệ bị sarcôm Kaposi rất thấp.

Ngoài ra chúng ta cần lưu ý đến những bệnh lý có liên quan đến tiêm chích ma túy như biểu hiện thần kinh tâm lý bất thường (đôi khi bị che lấp bởi tác dụng của ma túy), tình trạng quá liều thuốc, viêm gan siêu vi B và C. Tất cả những điều này ảnh hưởng không nhỏ trên sự chọn lựa biện pháp điều trị cũng như tiên lượng bệnh.

III. VẤN ĐỀ ĐIỀU TRỊ NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY BỊ NHIỄM HIV.

A. Một số khó khăn khi điều trị cho người nghiện ma túy nhiễm HIV.

Điều trị nhiễm HIV trên người nghiện ma túy dễ thành công, không khác biệt gì lắm so với người không nghiện. Vấn đề ở đây là người nghiện ma túy có nhiều loại bệnh liên quan đến ma túy, chịu nhiều tác dụng bất lợi của các loại thuốc kể cả thuốc dùng để cai nghiện, tương tác giữa các loại thuốc, vì vậy bệnh nhân thường không gắn bó mật thiết với chương trình điều trị nên hiệu quả của ARV giảm đáng kể. Bản thân một số bệnh có sẵn trên người nghiện chích ma túy làm cho nguy cơ tử vong cao, cũng có một số bệnh có thể nặng thêm khi nhiễm HIV. Những bệnh này bao gồm nhiễm trùng mô mềm, lao, viêm phổi do vi trùng tái đi tái lại, viêm nội tâm mạc, viêm gan siêu vi B và C. Muốn điều trị đạt kết quả, bên cạnh điều trị đặc hiệu chống HIV, chúng ta phải kiểm soát tốt các bệnh xảy ra cùng lúc, tăng cường các biện pháp cần thiết giúp cho bệnh nhân tuân thủ tốt quy trình điều trị. Chúng ta cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng hoặc có liên quan đến tuân thủ như chưa cai được ma túy, cách sống buông thả tùy tiện, phái nữ, tuổi quá trẻ, chưa được đưa vào chương trình cai nghiện kết hợp với điều trị ARV vì thiếu chuyên gia, v.v…