Lang thang trên mạng tìm được bài này , các bác vào đọc nghe.

HTML Code:
 Hêrôin - Anh hùng hay ác quỷ?(Kỳ I)

Mới đây, bác sĩ Michael de Ridder, 54 tuổi, sống tại Béclin (Đức) đã công bố một cuốn sách mô tả sự ra đời, việc phân phối và những "thành tích" đầy tai tiếng của hêrôin. De Ridder là người đầu tiên được phép lục tìm tài liệu trong kho hồ sơ lưu trữ của tập đoàn dược phẩm Bayer ở Leverkusen, Đức. Trước đây, tập đoàn này luôn từ chối cho người ngoài xem những hồ sơ loại này, vì không muốn nhắc tới quá khứ là nơi đầu tiên pha chế ra hêrôin, loại ma túy tai tiếng nhất trong thế kỷ 20.


Kỳ I: Sự thăng tiến của hêrôin



Nhà hóa học Felix Hoffmann, cha đẻ của hêrôin và aspirin.
Theo điều tra của de Ridder, ngày 21/8/1897, trong phòng thí nghiệm của mình, Felix Hoffmann, một nhà hóa học của tập đoàn Bayer, đã pha chất diacetylmorphin với một số chất khác làm thuốc giảm đau thay cho thuốc morphin gây nghiện. Sau khi tiến hành thí nghiệm với cá, chuột lang và mèo không thấy chúng làm sao, các nhà khoa học liền tiến hành thí nghiệm với các nhân viên nhà máy và con cái họ. Không thấy ai bị chết, cũng không thấy ai bị nghiện, chỉ chưa đầy một năm sau, không cần qua thử nghiệm đại trà, loại thuốc mới này được tung ra thị trường.

Cho rằng việc tìm ra loại thuốc mới này là một điều kỳ diệu, một hành động anh hùng, nên các ông chủ của Bayer đã đặt tên cho loại thuốc mới là "hêrôin", xuất phát từ chữ tiếng Đức "heroisch" có nghĩa là "anh hùng". Giờ đây, khi nhìn lại, những thập kỷ sau đó đã trở thành một chương kỳ lạ nhất trong lịch sử ngành dược phẩm. Từ khi đăng ký thương hiệu cho tới những năm 1930, Bayer đã bán loại hêrôin tinh khiết đi khắp thế giới. Ở khắp nơi, hêrôin được tán tụng là một loại thuốc mạnh, đa tác dụng và được bán cho hàng triệu người.

Trong thời kỳ này, Đức đã trở thành nhà sản xuất hêrôin lớn nhất thế giới. Những vị giám đốc Bayer thời kỳ đó tự hào coi hêrôin là mặt hàng kinh doanh tuyệt vời. Đa số các bác sĩ cũng ca ngợi đây là loại dược phẩm an toàn và quý giá, có "công hiệu kỳ lạ" trong điều trị ho, giảm đau và nhiều loại bệnh khác. Trẻ em, phụ nữ trong thời kỳ mang thai, người già, người ốm yếu đều sử dụng hêrôin. Hêrôin được bán và sử dụng dưới dạng thuốc bột, thuốc pha chế, dạng nước. Phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt thì có băng tampons tẩm hêrôin. Hêrôin được bán và sử dụng khắp nơi, nhưng hầu như không ai bị nghiện, không có tội phạm buôn bán hêrôin, bởi vì hêrôin của Bayer được bán công khai ở hiệu thuốc, trong những chai thuốc rất "lịch sự" chứa tới 25 gam - một khối lượng mà ngày nay có thể gây ra cái chết của hàng chục con nghiện.

Phòng thí nghiệm của hãng Bayer khoảng năm 1900.

Vì sao vậy, chẳng lẽ hãng Bayer và các bác sĩ ở nước Đức khi đó lại thực sự coi hêrôin là vô hại tới mức họ có thể vô tư cho trẻ sơ sinh sử dụng làm thuốc ho? Phải chăng các nhà lãnh đạo Bayer biết được tác hại của hêrôin nhưng vì lợi nhuận sẵn sàng bỏ qua tất cả? Hay là bác sĩ ngày xưa có lý? Phải chăng nên coi hêrôin là thuốc hơn là ma túy?

Khi hêrôin được tung ra thị trường, chẳng có gì là bất thường cả, ngoài thành công cực kỳ lớn: Sau chưa đầy một năm, Bayer đã bán được hêrôin tại hơn 20 quốc gia, trước hết là ở Mỹ. Ngay từ năm 1902, lợi nhuận do bán hêrôin đã chiếm tới 5% lợi nhuận trong lĩnh vực dược phẩm của hãng và doanh số bán tăng vù vù, từ 45 kg năm 1898 lên tới 783 kg vào 10 năm sau đó. Vì Bayer không nhận được bằng phát minh sáng chế hêrôin, do chất này đã được nêu ra trong các tài liệu khoa học, nên chẳng bao lâu sau, các hãng khác cũng nhảy vào cạnh tranh là Sandoz, Hoffmann La Roche, Boehringer, Gehe, Knoll và Merck.

Trong thời kỳ đầu, hêrôin được đựng trong chai, bán ở hiệu thuốc như một loại "tiên dược".
Ngành kinh doanh hêrôin thành công, một phần cũng vì là Bayer rất "rắn". Carl Duisberg, người được ủy quyền đại diện cho Bayer khi đó, đòi cấp dưới phải thẳng tay trừng trị những người khẳng định rằng hêrôin là không an toàn. Một số ít bác sĩ ngay từ đầu đã kiên định ý kiến rằng hêrôin có độc tính và có khả năng gây nghiện. Duisberg tuyên bố với các nhà nghiên cứu của hãng: "Chúng ta không thể chấp nhận việc trên thế giới có ý kiến cho rằng chúng ta không thận trọng khi phát hành những loại thuốc không được thử nghiệm kỹ lưỡng".

Thay vì nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, Bayer "trống giong cờ mở" để tuyên truyền cho hêrôin. Bộ máy tuyên truyền được tổ chức chặt chẽ của Bayer đã tiến hành những biện pháp tiếp thị xông xáo. Họ gửi những gói hêrôin dùng thử tới các bác sĩ ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở Trung Quốc, dù không được yêu cầu. Họ giao cho những bác sĩ sẵn sàng chiều lòng họ việc nghiên cứu những chủ đề liên quan có lợi cho Bayer. Trong phần thông tin trên "Báo bác sĩ Đức", họ yêu cầu các bác sĩ sử dụng hêrôin "được công nhận là ưu việt" để điều trị căn bệnh nghiện morphin rất phổ biến khi đó, bởi vì hêrôin có xuất xứ từ morphin nhưng không gây nghiện!

Chiến dịch tuyên truyền của Bayer đã thành công lớn. Các bác sĩ liên tục kê đơn hêrôin như chính họ bị nghiện vậy. Một bác sĩ còn đánh giá trong một tạp chí chuyên ngành rằng, giá trị của hêrôin tăng lên vì hêrôin "hoàn toàn không có độc tính". Một người khác thì tung hô hêrôin là "thuốc an toàn nhất, tuyệt vời nhất trong các loại thuốc ho".

Kỳ cuối: Hêrôin trở thành tác phẩm của ác quỷ

Nhưng không chỉ điều trị bệnh ho. Bayer nhanh chóng nhận ra rằng hêrôin có công dụng đối với nhiều loại bệnh. Từ năm 1906, tập đoàn Bayer khuyên dùng hêrôin để giảm đau, chống trầm cảm, trị viêm phế quản, hen xuyễn hoặc ung thư dạ dày... có nghĩa là trị bách bệnh, chỉ loại trừ một số ít bệnh được biết khi đó. Ngay cả những người khỏe mạnh cũng thích thú với hêrôin. Câu lạc bộ Alpen khuyên các thành viên trước mỗi chuyến đi lên núi cao nên uống hêrôin, vì nó làm cho dễ thở hơn, đi du ngoạn được xa hơn.

Trồng cây thuốc phiện ở Ápganixtan để chế biến hêrôin.


Dĩ nhiên là hêrôin của Bayer cũng được sử dụng trong nhà thương điên. Năm 1900, bác sĩ Pastena đã phát hêrôin cho các bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần Napoli, những người điên, những người ngớ ngẩn, những người hoang tưởng, những người động kinh, những người bị liệt và những người mê sảng. Pastena nhận xét rằng, thuốc có tác dụng an thần lâu dài và trong một số trường hợp thậm chí khỏi bệnh. Các bác sĩ tâm lý Nga sử dụng hêrôin để chữa trị các "nỗi đau tâm hồn", các bác sĩ Ba Lan sử dụng hêrôin để điều trị các bệnh nhân mắc chứng thủ dâm. Hêrôin là loại thuốc ma quỷ có thể trợ giúp trong nhiều trường hợp, ngay cả đối với nữ bệnh nhân đáng thương của bác sĩ phụ sản Mirtl tại Viên. Năm 1899, bệnh nhân này nằm ở bệnh viện nữ Maria Theresia với chứng bệnh "cuồng dâm" xem chừng không thể chữa khỏi. Nhưng khi sử dụng hêrôin, việc điều trị đã có tiến triển.

Về tác dụng phụ, các bác sĩ chỉ ghi nhận trạng thái mơ màng, chóng mặt và táo bón, còn không ghi nhận tác hại nào khác. Những bác sĩ ngay từ khi hêrôin ra đời đã cảnh báo về nguy cơ gây nghiện vẫn chỉ là thiểu số. Bác sĩ Grinewitsch, người đã kê đơn hêrôin cho 2000 bệnh nhân cho rằng, không sợ có sự thèm muốn bệnh hoạn đối với loại thuốc này.

Trong hơn 500.000 lính Mỹ tham gia chiến tranh ở Việt Nam, có hơn 100.000 người nghiện ma túy.
Phát biểu này trái ngược lại với những gì trẻ em được học ở trường vài chục năm sau. Vậy thì vì sao mà những người sử dụng hêrôin dưới thời vua Wilhelm II lại không bị nghiện như cháu chắt họ? Có lẽ điều quyết định không gây chứng nghiện khi đó là hình thức sử dụng hêrôin thịnh hành khi đó. Những người bệnh chỉ uống vài miligam, tức là chưa tới một phần mười số thuốc mà những người tiêm chích sử dụng sau này. Khi uống vào, phải mất một thời gian hêrôin mới tác dụng lên não. Những người sử dụng hêrôin khi đó không có cảm giác "phê", nhưng có lẽ thấy giảm đau và một chút hưng phấn. Đó là hai trạng thái mà họ mong muốn. Khi uống hêrôin, những người bệnh khi đó thấy dễ chịu trong cơ thể và tâm hồn.

Khi đó, người ta không nghĩ tới việc "hít, hút hoặc tiêm chích với liều cao". Vì vậy, trong một thời gian dài, tại châu Âu không có nạn nghiện hêrôin. Cho tới năm 1920, các nhà chức trách y tế Đức còn hoàn toàn không biết tới khái niệm "nghiện hêrôin".

Nhưng ở Mỹ, khách hàng "sộp" của Bayer, thì khác. Người Mỹ khi đó vốn đã bị coi là sống trong một dạng nhà nước xì ke ma túy. Có tới 10% các bác sĩ bị nghiện thuốc phiện, hàng trăm nghìn người tiêm chích morphin, vô số những người Hoa nhập cư nghiện hút thuốc phiện. Khoảng năm 1910, rất nhiều người chuyển sang dùng hêrôin. Khi các bệnh viện đầy ắp những người nghiện hêrôin, nhà nước mới bắt đầu tăng cường kiểm soát loại thuốc này và chặt chẽ hơn trong việc kê đơn. Khi đó, việc buôn bán hêrôin chuyển sang chợ đen, giá cả tăng lên, tội phạm khi buôn bán hêrôin cũng gia tăng. Đối với những nhà sản xuất thì đây là một cơ hội vàng, vì các hãng dược phẩm Đức và các nước khác thu lợi gấp bội trong kinh doanh ngầm. Vào cuối những năm 1920, nhu cầu chính thức của thế giới vào khoảng 2 tấn hêrôin, nhưng trong một năm, tới 9 tấn hêrôin đã được sản xuất ra.

Các hãng dược phẩm danh tiếng cũng buôn bán bí mật như mafia. Theo ông de Ridder, tập đoàn Hoffmann-La Roche của Thụy Sĩ đã thường xuyên cung cấp ma túy cho các tổ chức buôn lậu. Khoảng giữa những năm 1920, cảnh sát Hamburg phát hiện ra rằng hãng này đã vận chuyển hêrôin, morphin và cocain với danh nghĩa là những hóa chất vô hại. Để che giấu, họ đặt biệt danh cho hêrôin là "yeaxt", cocain là "yamyk". Vì hành động buôn lậu này, năm 1927, Ủy ban thuốc phiện quốc tế đã cảnh cáo tập đoàn Hoffmann-La Roche, cho rằng tập đoàn này không xứng đáng nhận được giấy phép buôn bán thuốc gây mê.

Sau những hiệp định quốc tế về thuốc phiện ngày càng chặt chẽ hơn, từ năm 1931, việc kinh doanh hêrôin của Bayer và các tập đoàn khác hầu như bị đình chỉ. Một số lượng ít ỏi hêrôin mà họ tiếp tục sản xuất thì bị kiểm soát nghiêm ngặt. Hêrôin bị cấm bán trong các hiệu thuốc. Từ một dược phẩm được coi là "anh hùng", giờ đây hêrôin bị coi là tác phẩm của ác quỷ. Việc sản xuất và buôn bán hêrôin trở thành trọng tội, có thể bị tử hình ở nhiều quốc gia, vì nó gây ra nhiều thảm cảnh nhà tan cửa nát, con người thì thân tàn ma dại. Vào thời kỳ đỉnh cao cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam cuối những năm 1960, trong số 500.000 lính Mỹ tham chiến thì có tới trên 100.000 người nghiện ma túy, trong đó có hêrôin, góp phần tạo nên "Hội chứng Việt Nam" sau chiến tranh.

Hiện nay, hêrôin chỉ còn được sản xuất hợp pháp tại Anh. Người Anh vẫn coi đây là một loại thuốc giảm đau hiệu quả và sử dụng khoảng 300 kg một năm. Hêrôin có tác dụng nhanh hơn morphin, nhưng hiệu quả cũng giảm nhanh hơn. Nhưng nó cũng không làm biến đổi gien di truyền cũng không gây độc hại lâu dài. Theo ông de Ridder, việc loại bỏ hầu như hoàn toàn hêrôin cũng là điều bất lợi đối với những bệnh nhân bị những căn bệnh không thể chữa khỏi, gây đau đớn và những người hấp hối, vì đây là loại thuốc giảm đau hiệu quả, giúp họ giã từ cõi đời một cách nhẹ nhàng hơn.

Ông de Ridder cho rằng những kẻ tiêm chích ma túy hiện nay trông thảm hại không phải vì tại thuốc, mà vì hêrôin buôn lậu hay lẫn độc dược và nhiễm khuẩn, những kẻ tiêm chích hay sử dụng kim tiêm mất vệ sinh nên hay bị nhiễm trùng và mưng mủ.

Felix Hoffmann, cha đẻ của hêrôin, đã qua đời năm 1946 trong hoàn cảnh không vợ, không con và hầu như bị rơi vào quên lãng ở Thụy Sĩ. Hãng Bayer thậm chí cũng không đăng một lời cáo phó. Trong khi đó, Hoffmann là một người còn có công lớn khác: Ngày 10/8/1897, hơn 10 ngày trước khi ông tạo ra loại ma túy tai tiếng nhất của thế kỷ 20, thì ông đã tạo ra một loại thuốc cũng trở nên nổi tiếng thế giới, đó là aspirin, còn được sử dụng rộng rãi cho tới ngày nay.
Vậy đó , nếu Heroin sử dụng đúng cách nó là 1 loại thần dược đó. kakakaka